Trang chủ Các tác giả Đăng bởi Lotus

Lotus

1159 Bài viết 0 BÌNH LUẬN

Giọt nước mắt cảm ơn

0

Đúng năm giờ bác Chu tài xế xe taxi phải giao xe, nhìn đồng hồ đã năm giờ mười lăm rồi, nên bác tài đem tấm bảng “tạm thời không đón khách” treo lên. Đúng ngày cuối tuần, học sinh trong ký túc xá của trường trung học số bốn mươi chạy ùa ra. Bác Chu tài xế nhịn không được thói quen này nên dừng xe lại, nhìn học sinh đi đi lại lại, chúng nó mặc đồng phục nhà trường, trên mặt tươi cười rạng rỡ.

– “Bác tài, cháu cháu muốn ngồi xe của bác.” Một bé gái chân đi cà thọt lưng mang cặp sách đi đến, nhìn hai bên phải trái nói vội vàng.

Bác tài nói phải giao xe, và chỉ có dừng xe chút xíu thôi.

Em bé gái cúi đầu, mấy giây sau nó lại thành khẩn nói: “Cám ơn bác, bác tài, cháu chỉ ngồi một trạm là một trạm thôi.”

Hai chữ “cám ơn” làm cho bác Chu tài xế động lòng, bác nhìn trên trên thân em bé gái mặc cái áo giặt trắng tinh, một cái cặp sách cũ không thể cũ hơn được nữa, nên nhịn không được bèn thở dài nói: „Lên xe”. Em bé gái sung sướng lên xe. Xe đến khúc quanh, em bé gái đột nhiên đằng hắng nói: “Bác tài, cháu chỉ có ba đồng bạc mà thôi, cho nên, đến nửa trạm thì cháu xuống.” Bác tài nhìn trong kính chiếu hậu thấy em bé gái mặt đỏ gấc, không nói gì. Đây là xe taxi ở thành phố, giá mỗi đoạn đường có thể là năm đồng.

Lái xe đến trạm dừng công cộng thì bác tài dừng xe lại, em bé đứng nơi cửa vui vẻ nói: “Thật cám ơn bác, bác tài.” Bác Chu tài xế nhìn thấy em bé gái khập khiễng đi về phía trước, đột nhiên trong lòng có chút ái ngại.

Cũng từ ngày cuối tuần ấy, bác Chu tài xế mỗi ngày cuối tuần đều nhìn thấy em bé gái đứng đợi ở cổng trường, mấy chiếc xe taxi chạy qua, em bé gái nhìn như không nhìn, chỉ biết đứng chờ. Em bé gái đợi mình ? Bác Chu đoán và trong lòng cảm thấy ấm áp, bác lái xe đến, em bé gái từ đàng xa giơ tay vẫy vẫy, bác Chu tài xế rất kinh ngạc, xe bác ta màu da cam giống với các xe taxi khác, em bé gái làm sao có thể nhìn mà biết được chứ ? Đây là ba đồng, đây là một trạm. Bác tài không hỏi nó tại sao chỉ đứng đợi xe của mình, và cũng không hỏi tại sao chỉ ngồi có một trạm?

Trong lòng em bé gái có một bí mật nhỏ, bác Chu tài xế rất hiểu điều này. Một lần, hai lần, ba lần, dần dần bác Chu tài xế trở thành thói quen. Cuối tuần trước khi giao xe, thì người cuối cùng phải chở nhất định là cô bé thọt chân trong trường trung học số bốn mươi. Bác tài đem tấm bảng “tạm không chở khách” treo lên, chuyên tâm đợi trước cổng trường. Em bé gái chỉ mười bốn mười lăm tuổi mà thôi, vừa nhìn thấy ông thì giống như con nai nhỏ chạy qua đường, lớn tiếng nói với bạn học “tạm biệt”, bất quá chỉ năm phút đồng hồ là em bé gái xuống xe, câu cuối cùng vẫn là: “Cám ơn bác, bác tài.” Hình như chỉ đợi câu nói ấy, cuối tuần bất kể là đi bao xa thì bác Chu cũng lái xe đến trường. Có lúc giao xe bị phạt, bác ta cũng nhất định chở em bé gái đi một đoạn đường. Thời gian qua rất nhanh, tình hình này tiếp tục thêm một năm nữa, chớp mắt mùa hè của năm thứ hai đã đến. Nhìn em bé gái mang cặp sách thật nặng nề, bác Chu đột nhiên cảm thấy như đánh mất cái gì đó. Bác biết em đã tốt nghiệp phổ thông cấp hai, và nó sẽ học cấp ba ở đâu?

– “Bác tài, cám ơn bác, có lẽ đây là lần cuối cùng cháu ngồi xe của bác, thật làm phiền bác quá. Cháu thi đậu trường trung học Tân Tập Nhất, có lẽ nửa năm mới về nhà một lần,” em bé gái nói như thế.

Bác tài từ trong kính chiếu hậu nhìn cặp mắt em bé gái, trong lòng rất là không yên. Em bé quả nhiên rất ưu tú, trường Tân Tập Nhất là trường điểm của tỉnh, thi đậu vào đó thì đã bước một chân vào ngưỡng cửa đại học rồi.

– “Vậy thì bác đưa con về nhà.” bác tài nói.

Em bé gái lắc đầu nói mình chỉ có ba đồng bạc mà thôi.

– “Lần này không lấy tiền.” Bác tài nói xong thì nhìn đồng hồ, đưa em bé gái về nhà thì nhất định giao xe bị trễ giờ, có thể bị phạt chút tiền, nhưng có quan hệ gì chứ ? Bác muốn ngồi chung với em bé gái thêm chút nữa. Em bé gái nói địa chỉ rất xa, còn thêm bảy trạm nữa, nửa giờ sau, bác tài dừng xe, em bé ôm cặp bước xuống, bác tài lấy một cái hộp trong xe ra, nói: “Đây là món quà bác tặng cháu.”

Em bé gái kinh ngạc tiếp nhận quà, sau đó cúi mình chào bác tài, nói: “Cám ơn bác, bác tài.”

Nhìn em bé gái thọt chân đi vào nhà, bác Chu tài xế thở dài. Cháu bé, từ nay không còn gặp lại nữa? Bác tài cũng không biết tên em bé là gì nữa!

Đã qua mười năm rồi. Bác Chu tài xế vẫn còn lái xe taxi.

Hôm nay, việc làm không nhiều, ông đang lái xe, nhưng lại nghe được chương trình ca nhạc của đài giao thông phát đi chương trình “nhắn tin tìm người, tìm bác tài xế mười năm trước thuê xe của công ty Thắng Lợi, số xe là Axxxx.” Bác Chu tài xế vừa nghe thì ngớ người ra, có người tìm ông ta? Mười năm trước, ông ta lái chính là chiếc xe này. Điện thoại gọi thẳng đến tổng đài, người phụ trách tổng đài kinh ngạc đưa cho bác tài xế số điện thoại, bác Chu nghi hoặc, là ai nhỉ ? Mỗi ngày bận bịu vì kế sinh nhai, ngoại trừ bà vợ ra thì bác tài không quen biết người phụ nữ nào khác.

Gọi điện thoại, bác tài nghe âm thanh của một cô gái trẻ, cô ta kinh ngạc vui mừng hỏi: “Là bác sao, bác tài ?”

Bác tài giựt mình, âm thanh này, lời nói này rất là quen thuộc, nhưng bác tài không nhớ là ai cả.

– “Cám ơn bác, bác tài.” Cô gái lại nói.

Hai người hẹn gặp nhau ở một quán cà phê, khi gặp cô gái ấy, bác Chu hình như nhận không ra, trước mắt là một cô gái thướt tha, là bé gái mười năm trước đi xe chỉ có ba đồng bạc đó ư? Cô gái đứng lên cúi mình chào bác tài và nói: “Từ trong lòng cháu cám ơn bác, bác tài.”

Uống cà phê, cô gái kể chuyện ngày trước: Mười hai năm trước, ba của cô cũng là một tài xế lái xe taxi, ông rất thương yêu cô gái, mỗi ngày cuối tuần, dù bận cách mấy ông cũng lái xe đến trường đưa cô về nhà. Tết đến, cả nhà về quê ăn tết, vì để mang được nhiều đồ, ba của cô mượn xe bánh mì của người bạn. Lái xe được nửa đường, đột nhiên tuyết rơi rất nhiều, không may tông vào một chiếc xe hàng, xe bánh mì bị hư toàn bộ, ba của cô chết tại chỗ, từ đó chân của cô bị thương nặng. Chôn cất ba xong, mẹ phải bồi thường xe cho người bạn của ba một khoản tiền lớn, và để làm phẫu thuật chân cho cô, nên mẹ làm việc ngày đêm không nghỉ, còn cô, sau khi vết thương lành thi lập tức đi học, nhất tâm muốn mau lớn.

Cô rất kiên cường, việc gì cũng có thể chịu đựng, nhưng duy chỉ có một việc là không chấp nhận người khác thương hại mình. Cho nên, cô không nói cho ai biết việc bị tai nạn trên đường. Tan học về nhà, khi bị bạn học hỏi tại sao bây giờ lại đi xe công cộng ? Cô bé nói dối là vì ba đi xa, nói dối được nửa năm, cho đến khi gặp bác Chu tài xế. Cô bé thấy chiếc xe taxi dừng bên đường không chút động đậy, giống như ba cô bé lái xe đến đợi trước cổng trường.

Cô bé chỉ có ba đồng để đi xe công cộng, nhưng cô bé lấy tất cả để ngồi xe taxi, chỉ ngồi một trạm, sau đó đi bộ nửa giờ nữa về nhà, mặc dù đường rất xa, nhưng cô bé vẫn thản nhiên đi, bởi vì không ai có thể đoán biết là ba của cô bé đã chết.

– “Bác nhất định không biết, chiếc xe taxi mà bác đang lái đó là chiếc xe mà ba của cháu đã lái, số xe cứ in mãi trong óc của cháu.”

Cô gái nói xong thì nước mắt rơi xuống: “Cho nên, từ xa xa, chỉ cần nhìn thì cháu liền nhận ra nó.” Bác Chu tài xế thấy lỗ mũi nóng, chút xíu nữa thì cũng chảy nước mắt.

– “Tấm huy chương này cháu luôn mang trên mình, cháu không biết, nếu không có nó thì cháu có thể đi được đến ngày hôm nay không. Hơn nữa, bác trả lại cháu tiền xe, cháu vẫn cứ giữ nó. Có một chút tiền, cháu cảm thấy vấn đề gì cũng có thể khắc phục được. Mặc dù mất phụ thân, nhưng cháu vẫn có phụ thân như cũ.” Nói xong, cô gái lấy trong túi ra tấm huy chương mang vào mình. Góc cạnh của tấm huy chương đó đã biến thành màu đen, sau tấm huy chương có viết hàng chữ: “Chúc cuộc sống của con cũng như tấm huy chương này.”

Tấm huy chương này là của bác Chu tài xế làm quà tặng cho cô gái mười năm trước. Cô gái dắt cánh tay của bác Chu tài xế rời khỏi quán cà phê. Nhìn cô gái lái xe đi rất xa, bác Chu dừng xe bên đường, để cho nước mắt chảy xuống. Cô gái thọt chân ấy, cô gái ấy bây giờ bác tài mới biết tên cô ta là Lâm Mỹ Tuyết, cô gái và con của bác tài đã chết cách đây mười năm vì ung thư, thật quả là ấn tượng giống nhau! Con gái của bác khi còn sống, cứ mỗi ngày cuối tuần thì bác đều lái xe đến trường đón nó. Con gái trước khi lên xe thì nói: “Cám ơn ba.”, xuống xe cũng câu ấy: “Ba, con cám ơn ba.”, làm cho bác tài cảm nhận được rất nhiều hạnh phúc!

Tấm huy chương ấy là của con gái ông được thưởng trong kỳ thi Olympic, đã làm cho ông ta rất kiêu hãnh và hy vọng, nhưng con gái ông đột nhiên chết đi khiến cho ông ta không kịp đề phòng. Lại đến ngày cuối tuần, đi ngang qua trường trung học số bốn mươi, ông ta đều dừng xe lại, hình như con gái vẫn có thể từ cổng trường chạy ra, lên xe, và lớn tiếng nói: “Ba, cám ơn ba.”

Trên đường trở về nhà, bác Chu mua một tờ báo, vừa mở báo ra xem thì bác liền thấy ngay hình của cô gái thọt chân ấy. Cô ta cười tươi với bác Chu tài xế, trên đề mục có chạy hàng chữ lớn: Lâm Mỹ Tuyết – phó tổng giám đốc trẻ nhất của công ty đa quốc gia, niềm kiêu hãnh của thành phố S…” bác Chu tài xế kinh ngạc há hốc miệng, đọc nhanh như chớp, vừa đọc vừa móc túi lấy thuốc ra hút theo thói quen.

Đột nhiên, tay của ông ta chạm phải một phong bì, lấy ra, bên trong phong bì đựng đầy tiền đô la Mỹ dày cộm, bác Chu ngớ ra, bác ta nghĩ không ra Lâm Mỹ Tuyết bỏ tiền vào túi ông lúc nào? Có phải khi cầm cánh tay mình dẫn đi không ?

Giữa xấp tiền mỹ kim ấy còn kẹp một tờ giấy nhỏ: “Bác tài, đây là lợi tức của yêu thương, xin bác nhận lấy. Cái vốn vô giá thì vĩnh viễn ở trong lòng cháu. Cám ơn bác, bác tài!

Cặp mắt của bác tài lại mờ mờ thêm một lần nữa…

Luật sư Nguyễn Thị Hậu – Người mặc áo dài “lối mới” đầu tiên năm 1935

0

Luật sư Nguyễn Thị Hậu – Người mặc áo dài “lối mới” đầu tiên năm 1935 trở thành nữ thị trưởng Đà Lạt năm 1966

Tấm hình này được đăng trên tuần báo Ngày Nay (tiền thân là báo Phong Hóa) của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, số đầu tiên ra ngày 30/1/1935, với lời chú thích: “Cô Nguyễn Thị Hậu – người thiếu nữ đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur”.

Nhân vật chính trong ảnh này, “cô Nguyễn Thị Hậu” là một cô gái Hà Nội sinh năm 1919, khi đó mới 16 tuổi, là người đầu tiên mặc áo dài “lối mới” của họa sĩ – nhà thiết kế Nguyễn Cát Tường, chính là tiền thân của áo dài Việt Nam hiện nay. Một điều đặc biệt hơn nữa, bà Nguyễn Thị Hậu sau này trở thành một luật sư, và là thị trưởng Đà Lạt nhiệm kỳ 1966-1968, là nữ thị trưởng duy nhất của Việt Nam cho đến nay.

Bà Hậu khi là thị trưởng Đà Lạt

Bà Hậu làm thị trưởng trong khoảng thời gian thị xã Đà Lạt có nhiều biến động, vừa phát triển nhưng cũng lại vừa chịu nhiều đau thương. Bà là người đã cho xuất tiền mua hạt giống hoa rải khắp hai bên đồi thông của dinh thị trưởng, nên suốt một thời gian dài vài chục năm sau đó, ngọn đồi này lúc nào cũng đầy hoa: cúc dại, glaieul, bồ công anh, xen lẫn mùi hoa thông, trắc bách diệp, mimosa…

Bà Nguyễn Thị Hậu tại văn phòng thị trưởng Đà Lạt năm 1967

Trong tất cả các hình ảnh còn lưu lại của bà Nguyễn Thị Hậu, từ khi còn trẻ cho đến khi là thị trưởng, bà luôn luôn trong trang phục áo dài Việt Nam.

Cho đến nay, thông tin về nữ thị trưởng Nguyễn Thị Hậu không có nhiều, chỉ biết là bà xuất thân từ gia đình khá giả ở Hà Nội, từng theo học sư phạm, sau đó lầy bằng luật sư rồi dấn thân vào chốn quan trường. Bà được bổ nhiệm làm thị trưởng Đà Lạt năm 1966, khi đó bà 47 tuổi, kế nhiệm đại tá Trần Văn Phấn. Trước đó ông Phấn là tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức (nay là tỉnh Lâm Đồng), kiêm thị trưởng Đà Lạt vào năm 1965-1966. Tuy nhiên từ thời của bà Nguyễn Thị Hậu thì hai chức này không còn kiêm nhiệm nữa mà tách hẳn ra.

Luật sư Nguyễn Thị Hậu năm 1966, khi được bổ nhiệm thành thị trưởng Đà Lạt. Bà là nữ thị trưởng duy nhất của Việt Nam cho đến nay

Từ khi mới 15 tuổi, cô nữ sinh Nguyễn Thị Hậu đã là người mẫu ảnh xuất hiện trên các tạp chí chữ quốc ngữ thời thập niên 1930, trong đó bà vinh dự trở thành người phụ nữ đầu tiên mặc áo dài theo kiểu mới (còn gọi là áo dài Lemur) do họa sĩ Cát Tường thiết kế để chụp hình đăng trên báo. Áo dài của ông Cát Tường thiết kế từ thập niên 1930 này được xem là “thủy tổ” của áo dài Việt Nam hiện đại.

Ngoài Nguyễn Thị Hậu, còn có Nam Phương hoàng hậu, thứ phi Mộng Đẹp hay nghệ sĩ Phùng Há… là những người đầu tiên mặc áo dài Lemur của Nguyễn Cát Tường (Lemur là một bút danh của ông, tiếng Pháp nghĩa là bức tường).

Nguyễn Cát Tường (1912-1946) vốn là một họa sĩ cộng tác vẽ tranh biếm hoạ (ký tên: A. S. Lemur) cho tuần báo Phong Hóa (vào thời điểm trước khi Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam làm chủ bút). Khi chuyên mục “Vẻ Đẹp Riêng Tặng Các Bà Các Cô” được Nhất Linh mở ra trên tuần báo Phong Hóa số 85 (ngày 11/2/1934 – Xuân Giáp Tuất), Nguyễn Cát Tường trở thành nhà mỹ thuật vừa viết bài, vừa nghiên cứu y phục, vừa chế kiểu và còn chụp ảnh, vẽ minh hoạ ‘thời trang’ cho các ấn phẩm mà nhóm Tự Lực Văn Đoàn xuất bản, và ông được xem là người đặt nến móng cho áo dài hiện đại, với kiểu dáng gần nhất với hiện nay.

Trước thập niên 1930, y phục của phụ nữ Việt có màu u tối, chỉ có mầu nâu hay màu đen. Áo lùng thùng, ba bốn tà, quần thì rộng. Ngoài Bắc thì hay mặc mầu nâu, màu đen, trong Nam thì có những lối mặc khác, áo thì màu khác, nhưng thường thường thì màu vẫn không được tươi.

Vào đầu thập niên 1930, chiếc áo dài thuần tuý của Việt Nam bắt đầu thay đổi, giới phụ nữ bắt đầu mặc áo nhiều màu sắc, và từ năm 1934 thì hoạ sĩ Cát Tường đã tung ra một loạt các loại mẫu áo dài tân thời dưới cái tên “Lemur”.

Thông qua tập san Đẹp, tuần báo Phong Hóa, sau đó là Ngày Nay, hoạ sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường đã có nhiều hoạt động đa dạng khác giới thiệu y phục lối mới đến công chúng, đặc biệt là các quý bà quý cô thành thị khắp cả nước, như hợp tác với nhà may, hiệu vải, sáng tạo kiểu với các họa sĩ khác…

Trên tờ Phong Hóa số 86, ông nêu quan điểm: “Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể, song, nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ tri thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ, ta cũng đủ hiểu”

Ông Cát Tường đã nói rất chi tiết, cặn kẽ về vấn đề này, từ việc phụ nữ Việt Nam phải có một vẻ riêng không nhầm lẫn với Tây, Tàu hay Nhật, đến việc sửa sang cách ăn mặc từ tốn từng bước sao cho phù hợp với vóc dáng riêng, cải thiện những chi tiết không cần thiết, và quan trọng là “gác bỏ ra ngoài những điều bình-phẩm vô giá-trị”, “miễn là ta không làm gì quá lạm, rởm đời, có thể tổn đến hạnh phúc, hại đến danh-dự của ta và của nước”.

Qua phân tích của hoạ sĩ Lemur đã phần nào thể hiện tư duy thẩm mỹ và sáng tạo của ông, cũng như ý chí cải cách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thông qua báo chí. Rằng trang phục lối mới “cũng phải có tính cách riêng của nước nhà”, sự canh tân cần phù hợp với những đặc tính bản địa như khí hậu, văn hoá và hình thể cá nhân của mỗi người, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, khi phong trào cải cách y phục nổi lên, không ít phụ nữ khước từ, không thiếu những nhà trí thức phê phán gay gắt, trong đó có nhà văn Vũ Trọng Phụng, cho rằng đó là lối sống học đòi, lệch lạc thuần phong mỹ tục, không thể hiện được “tính cách Việt-Nam”.

Dù vậy, các mẫu y phục do hoạ sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường vẽ kiểu đã thổi một luồng gió đổi mới vào xã hội miền Bắc lúc bấy giờ, từ đó lan tỏa sức ảnh hưởng đến miền Trung và Nam Kỳ. Được các quý bà quý cô hoan nghênh nhất chính là những kiểu cách tân từ y phục phụ nữ 5 thân truyền thống, sáng chế dựa theo kiểu dáng và chi tiết âu phục của các “bà đầm” Pháp. Y phục lối mới dưới bút hoạ kiểu Lemur không chỉ làm dấy lên xu hướng “áo dài thời trang” thời bấy giờ, mà còn khởi xướng cuộc cải cách y phục phụ nữ táo bạo, có sức ảnh hưởng và được thán phục bởi nhiều thế hệ cho đến tận ngày nay.

Để chiếc áo dài Lemur bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã hợp tác với hiệu may Cử Chung ở số 100 phố Hàng Bông – Hà Nội và hiệu may Phạm Tá ở số 23 phố Bờ Hồ – Hà Nội. Đích thân họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã đi tìm những phụ liệu nhằm làm tăng thêm sức hấp dẫn cho chiếc áo dài.

Ông Cát Tường còn nói về phần chính và cốt yếu trong bộ y phục như sau: “Nói ra sợ không ai tin, điều quan trọng nhất của y phục phụ nữ là chiếc quần. […] Từ cạp đến đầu gối nên thu hẹp bớt để vừa khít với thân hình, như thế những vẻ đẹp thiên nhiên của từng người mới lộ ra được. Còn từ đầu gối trở xuống đến chân, hai ống quần lại phải may rộng dần ra để khi đi đứng cái dáng điệu của các bạn được tăng thêm vẻ nhẹ nhàng”. (báo Phong Hóa số 89 – 16/3/1934).

Chính Lemur Cát Tường đã cải biến khiến cho cái quần trở nên thon gọn và khoe được phần bụng phụ nữ hấp dẫn hơn, gợi mở hơn so với loại quần ngày trước.

Không dừng lại ở việc tạo kiểu cách tân cho áo dài truyền thống, hoạ sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường còn sáng chế và hiện đại hoá các mẫu áo cánh mặc trong nhà. Ông cũng chế kiểu áo pyjama mặc đi biển, áo mặc mùa nực, áo cánh, áo yếm, giày cao gót và hợp tác với hiệu dệt để cho ra đời quần áo tắm, đồ mặc lót.

Tháng 9/1934, hoạ sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường và các đồng môn cùng thời gồm hoạ sĩ Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Trần Quang Tran cho ra đời đặc san “Đẹp”, do NXB Đời Nay (do nhóm Tự Lực Văn Đoàn thành lập) phát hành. Trong phần quảng cáo phát hành số đầu tiên, báo Đẹp có nhắc đến cô Nguyễn Thị Hậu – người mặc bộ áo mới đầu tiên. Vì vậy có thể thấy Nguyễn Thị Hậu đã trở thành người mẫu cho Lemur từ năm 15 tuổi.

Vài tháng sau đặc san Đẹp ra đời, đến lượt tuần báo Ngày Nay xuất bản số đầu tiên, Lemur Cát Tường tiếp tục công cuộc cải cách y phục phụ nữ. Số bào Ngày Nay đầu tiên được ra vào dịp Tết, các bản tin xoay quanh chủ đề y phục tân thời khắp Bắc Trung Nam xuất hiện ở những vị trí tốt nhất, hình ảnh các thiếu nữ mặc y phục lối mới kiểu Lemur và chụp bởi Lemur được dùng làm ảnh bìa hoặc minh hoạ cho các trang tin nói về mùa hội hè, Lễ Tết, chợ phiên.

Những cuộc tranh luận về cải cách y phục phụ nữ trong giới truyền thông đã không xuất hiện nữa, thay vào đó là đầy ắp những thông tin, kiến thức về thế giới lớn giữa một thời đại mới, xã hội mới. “Ngày Nay” cho thấy phụ nữ tân thời không chỉ mặc vào bộ y phục lối mới mà còn ‘cải cách tri thức’ của mình thêm nữa. Y phục tân thời đã đi vào đời sống, ‘phong cách’ ăn mặc giữa lối mới và lối cũ được dung hoà, thị trường nội hoá thời “áo dài Le Mur” bắt đầu thích ứng khi các cửa hiệu, nhà may, xưởng dệt tích cực mang đến nhiều kiểu quần áo, vải vóc, giày dép, mũ nón, nữ trang phù hợp và bổ trợ cho thị hiếu tân thời.

Báo Ngày Nay không có chuyên mục “Vẻ Đẹp Riêng Tặng Các Bà Các Cô”, mà thay vào đó là chuyên mục “Phụ Nữ”, bắt đầu từ số 17 ngày 19 tháng 7 năm 1936. Hoạ sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường cùng nhiều tác giả khác phát động lối sống hiện đại “khoẻ và đẹp”, bày cách đánh phấn tô son, dưỡng nhan, chăm sóc da móng tóc, luyện tập thể thao, nâng cao hiểu biết và bàn về cách đối nhân xử thế của phụ nữ.

Báo Ngày Nay đăng thông tin về “Bảng đo những bộ phận của người khuôn mẫu (girl standard) năm 1935 và 1936 ở Mỹ”, trên số 28 ngày 4 tháng 10 năm 1936

Giai đoạn giữa thập niên 30, sau cơn chấn động của ý tưởng cải cách y phục phụ nữ bởi Le Mur và tuần báo Phong Hóa, sự cởi mở trong việc ăn mặc ‘hợp mố’ và trang điểm làm đẹp đối với các bạn trẻ, đã giúp nữ giới học cách quý trọng bản thân và nhận thức được giá trị xứng đáng của mình. Những năm 1934 – 1936 không chỉ là phong trào đổi mới y phục phụ nữ sôi nổi mà còn đánh dấu sự hình thành tư duy về “nữ quyền” trong đại chúng thành thị thời bấy giờ. Tháng 10/1936, tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc hội họp nhỏ của chị em phụ nữ miền Bắc, tuy nhỏ nhưng là cuộc hội họp đầu tiên ghi nhận ý nguyện khẳng định bản thân của phụ nữ Việt Nam.

Cuối năm 1936, sau khi kết hôn với con gái của một chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh, hoạ sĩ Cát Tường và vợ là Nguyễn Thị Nội, cùng phát triển tên tuổi của ‘nhà tạo mẫu Le Mur’ và khai trường cửa hiệu y phục phụ nữ tân thời ở số 16, phố Lê Lợi vào ngày 9 tháng 7 năm 1937. Được sự giúp sức và quán xuyến của vợ, việc kinh doanh của Lemur rất phát đạt. Tuy nhiên cuộc đời và sự nghiệp của ông bị dừng lại vĩnh viễn một cách đáng tiếc vào cuối năm 1946. Khi đó tình hình ở Hà Nội rối ren khi quân Pháp đang trở lại miền Bắc, dân Hà Nội được lệnh tản cư. Gia đình Lemur Cát Tường dời về làng Tràng Cát, xã Kim An, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông.

Ngày 17 tháng 12 năm 1946, khi ông Cát Tường trở về nhà để lấy thuốc men, quần áo cho các con và người vợ sắp tới ngày sinh. ông đã bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi biệt tích. Gia đình lấy ngày 17/12 năm đó làm ngày giỗ của ông.

Còn lại một mình, vợ của Lemur Cát Tường là bà Nguyễn Thị Nội tần tảo nuôi năm con thơ trong thời biến loạn, có lúc phải lưu lạc tận đất Lào sinh sống. Sau năm 1954, bà nán đợi tin tức chồng trong tuyệt vọng, rồi di cư vào Nam trên chuyến máy bay cuối cùng. Sau 1975, bốn con qua Mỹ, bà ở lại Việt Nam với con gái út và mất ngày 21-12-1979, thọ 67 tuổi.

SĨ DIỆN và THỂ DIỆN

0
Người Việt đề cao sĩ diện hơn thể diện
1/Tính sĩ diện bắt nguồn từ mong muốn chứng tỏ bản thân, muốn người khác coi trọng mình.
Điều này cũng tốt thôi, nhưng dần dà nhiều người lạm dụng nó một cách quá mức, khiến nó biến thành tính tự ái hơn là tự trọng. Đây là nguyên nhân làm cho những người có mặc cảm thua sút người khác phải cố gắng gồng lên để thể hiện mình, dẫn đến hoặc trở thành tự ti hoặc dễ trở thành cao ngạo. Điều khá trái khoáy là khi trở thành tự ti hay cao ngạo, những người này đều có đặc điểm chung là dễ „tổn thương“ hơn bao giờ hết, bất cứ một lời nói hay cử chỉ nào của người khác trái ý họ là họ cứ nghĩ rằng người khác giễu cợt hay xúc phạm mình. Ví dụ Xê Kô mỏ nhọn khi tự tin mình đẹp trai thì ai nói cậu ta xấu trai là cậu ta cho rằng xúc phạm cậu ấy do ghen tị, nhưng khi tự ti vì ngoại hình thì ai chê cậu ấy lùn, xấu, mỏ nhọn thì cậu khóc nức nở, trở nên tổn thương vô cùng.
Như vậy tính sĩ diện khiến người ta hay áp đặt cảm xúc của mình qua cách hành xử, đánh giá của người khác. Nó thường gây nhầm lẫn hoặc nâng lên thành quan điểm chung, đôi lúc tạo ra sự ngộ nhận sĩ diện là thể diện. Như một cô gái giàu có lấy một chàng trai nghèo khó, thường bị đánh giá là làm mất thể diện gia đình, nhưng thực ra đó là quan điểm, là suy nghĩ của cha mẹ hay gia đình cô ấy áp đặt lên cô ấy, và họ gọi đó là thể diện. Chúng ta có thể thấy sự ngộ nhận này rất nhiều trong đời sống hiện nay: như một môn thể thao, một cá nhân nào đó được mọi người tôn sùng „vỡ òa“ là niềm tự hào, là thể diện quốc gia, đó là vì họ có nhiều điều thua kém người khác nên rất cần một cái hơn, một cái sĩ diện để mà che giấu. Và rất xui xẻo cho ai lỡ vô tình hoặc cố ý chạm vào cái „thể diện“ ấy.
2/ Thể diện: là giá trị cốt lõi của cộng đồng được mọi người coi trọng thông qua cách ứng xử văn hóa của cả cộng đồng hay từng cá thể trong cộng đồng đó.
Thể diện có thể có trước và được hình thành bởi một lối sống văn hóa của những người có tự trọng cao trong một cộng đồng tạo nên, và những người đi sau có nhiệm vụ ý thức các giá trị đó. Như ta thấy, dùng một sản phẩm Nhật ta vẫn yên tâm hơn các sản phẩm Trung Quốc; người Nhật không chấp nhận làm hàng đểu, bởi từ lâu thương hiệu Nhật đồng nghĩa với „thể diện quốc gia“. Vì thế, sau vụ xử lý làm sạch sông Tô Lịch bị phía Hà Nội vu khống, người Nhật sẵn sàng tài trợ 100% chi phí để chứng minh phương pháp của mình không sai là vậy. Với người Nhật, danh dự của cá nhân gắn liền với dân tộc; là người Nhật, nếu một người làm xấu, cả quốc gia sẽ mang tiếng. Thế nên, việc bé gái Việt bị sát hại tại Nhật, đích thân đại sứ Nhật đã đến nhà cô bé tại Việt Nam xin lỗi, cả nước Nhật xin lỗi chứ không đổ thừa cho bất kì một cá nhân nào như ở xứ ta. Rõ ràng, người Nhật họ vì thể diện chung mà bỏ qua sĩ diện riêng, người Việt vì sĩ diện riêng lại bỏ qua thể diện chung (như việc chối bỏ trách nhiệm vụ 39 nạn nhân thiệt mạng trong thùng container ở Anh).
3/ Sĩ diện và thể diện, cái nào quan trọng hơn?
Người vì sĩ diện cao sẽ sẵn sàng lao vào ẩu đả nhau để chứng minh mình như: giành gái, cho là bị xúc phạm, v.v. người hay sĩ diện là người hay thích hơn thua, thích che giấu khuyết điểm và rất tự ái khi ai nói lên khuyết điểm của mình, thậm chí là oán giận.
Thể diện: giúp con người có ý thức điều chỉnh về hành vi của mình, biết suy nghĩ hơn cho người khác.
Năm 2007, có lần tui đi mua rau. Trời tối, tui đưa 5 chục ngàn, cô bán hàng thối nhầm hai tờ 500 nghìn (vì tưởng là 20 nghìn). Thời đó, lương công nhân tầm khoảng 790 nghìn/tháng. Tui phải đấu tranh trong cả chục phút để quyết định có nói sự thật hay không. Cuối cùng, tui trả lại cho cô ấy vì..tui là người miền Tây, là người miền Tây thì không thể gian dối mà mang tiếng cho cả vùng. Sau khi nhận lại tiền, và biết tui là người miền Tây, cô bán hàng thốt lên: „Công nhận người miền Tây thật thà như đếm“!
Vậy tui có tham không? Rõ ràng lúc đầu tui có tham, nhưng cái ý thức, cái thể diện của người miền Tây đã điều chỉnh lại tui, không cho phép tui đánh mất cái sự tự tôn đó.
Thế nên, khuyên nhủ một con người để họ ý thức được việc làm cụ thể của mình để mọi người tôn trọng hơn là cổ súy lối sống sĩ diện. Một quốc gia có thể diện là một quốc gia biết chăm chút và quan tâm cho công dân mình khi họ ở nước ngoài, Quốc gia ý thức được rằng công dân chính là thước đo cho chuẩn mực của một nền văn hóa, giáo dục. Ngược lại, một công dân biết giữ thể diện là một người biết điều tiết hành vi để quốc gia mình không mất thể diện khi sống ở một cộng đồng khác, quốc gia khác.
Có một câu chuyện hay mà tui đọc được: Một người Trung Quốc muốn trêu tức một người Mỹ bèn châm lửa đốt quốc kỳ Mỹ ngay tại thủ đô Bắc Kinh. Anh người Mỹ thấy vậy không những không giận còn đến phụ một tay. Trước sự ngạc nhiên của anh Tàu đang há hốc mồm, anh Mỹ giải thích:
– Ở Mỹ chúng tôi còn đốt cả cờ và hình nộm Tổng Thống ngay trước phủ Tổng Thống, mọi người đều có quyền bày tỏ cảm xúc của mình và giá trị của nước Mỹ không phải nằm ở lá cờ, ở bất kỳ một con người cụ thể nào mà là ở những giá trị mà người Mỹ làm được cho nhân loại. Nên chúng tôi không có nghĩa vụ ca tụng ai cả mà mỗi chúng tôi đều là hình ảnh của nước Mỹ, mỗi việc làm của chúng tôi sẽ bảo vệ hình ảnh đó.
Rõ ràng, nếu ngược lại là anh Mỹ đốt cờ Trung Quốc, chắc chắn anh Tàu sẽ không để yên. Vì anh Tàu được giáo dục yêu nước là yêu lãnh tụ, yêu lá cờ. (Đó là sĩ diện, không phải thể diện). Anh Mỹ được giáo dục rằng yêu nước là tạo ra những thành tựu cụ thể để xứng đáng; hay chí ít ra ngoài phải có những hành xử chứng tỏ mình là người Mỹ, có tự tôn của dân tộc, không làm điều sai trái khi ra bên ngoài để ảnh hưởng quốc gia.
Còn người Việt ư? Người Việt vì sĩ diện mà có thể chứng minh với cả thế giới rằng khi ra ngoài ta không thua sút bất cứ một ai, vì có thể làm tất cả mọi việc mà người khác không thể ngờ tới! Còn ai hỏi thể diện á? Sẽ nghe câu trả lời:
– Có ăn được không???

Cánh chim lạc đàn

0

Thiên địa phong trần

Hồng nhan đa truân

(Chinh Phụ Ngâm)

Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước… Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do an ổn…

Nhưng trên đời, không phải giấc mơ nào cũng dễ thành, mà còn tùy thuộc vào số phận. Người tài giỏi thành công là chuyện hiển nhiên. Cũng như người kém cỏi chuốc thất bại là điều bình thường. Tuy nhiên, cũng không thiếu kẻ có tài đức mà cuộc đời vẫn lận đận long đong như thường, như cụ Nguyễn Du đã nói: “Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau!”. Ngược lại kẻ khờ khạo gặp may “hay không bằng hên” hoặc “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” vẫn thành công nhan nhản trong cuộc sống. Tựu trung tất cả quy vào trời, vào duyên phúc số phận. Trong “ Kiều” có câu:

“Ngẫm hay trăm sự tại trời

Trời kia sao bắt làm người có thân,

Bắt phong trần, phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Cho nên những ước mơ qua đó sẽ thành tựu hoặc mãi mãi vẫn là mơ ước…

*****

Tôi định cư tại Thụy Sĩ nhờ Hương, em gái ruột tôi sẵn ở đó. Hương đến trước tôi một năm, diện tỵ nạn. Còn tôi, đúng ra với tư cách vợ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, chồng đang cải tạo, tôi được đi Mỹ dễ dàng, diện ba sau diện con lai hoặc nhân viên trực tiếp làm việc với Mỹ. Điều đó ai cũng cho là may mắn (sự may mắn phải trả một giá rất đắt “nhờ” chồng ở tù), nhưng tôi lại khước từ, nêu nguyện vọng với Cao Ủy muốn định cư Thụy Sĩ, vì nơi đó có Hương. Hai chị em ruột bơ vơ xứ người, ai cũng trơ trọi không tìm đến nhau thì tìm đến ai?

Ngày rời đảo, chuyến bay của tôi vỏn vẹn sáu người: Tôi, một thanh niên, một cặp vợ chồng với hai con nhỏ. Những chuyến bay đi Úc, Canada, Mỹ… chở đầy ắp người Việt. Còn chuyến bay của tôi lẻ tẻ, lẻ loi như những con chim lạc đàn, nhưng không phải lạc đàn trong cơn bão tố, mà phải nói rẽ đàn đúng hơn, bay đi hướng khác, mong khám phá điều mới lạ nơi chân trời mới!

Từ nhỏ, tôi đã học qua những điểm chính yếu về Thụy Sĩ: Đời sống êm ả thanh bình thịnh trị, phong cảnh thiên nhiên đẹp, hữu tình và đặc biệt nổi tiếng khắp thế giới về đồng hồ với các hiệu Rolex, Longine, Omega… Giờ tìm hiểu kỹ càng hơn, tôi hơi thất vọng vì Thụy Sĩ quá nhỏ, diện tích chỉ 42.300 cây số vuông, nhiều đồi núi, dân cư thưa thớt (hơn bảy triệu dân), khí hậu lạnh hầu như quanh năm, nói bốn thứ tiếng: Đức, Pháp, Ý và cổ ngữ Latin.

Đặt chân đến, tôi càng nản hơn. Thành phố vắng hoe, cứ y như thành phố chết hoặc trong tình trạng giới nghiêm như ở nước ta trong thời chiến tranh vậy. Đúng sáu giờ rưỡi tối, các cửa tiệm đóng cửa (ngoại trừ một vài tiệm ăn). Ban ngày đã thưa người, tối càng vắng vẻ hơn.

Nhưng lỡ đến phải đến. Dù gì đời sống ở đây chắc chắn vẫn hơn trại tỵ nạn Bidong Malaysia. Đương nhiên, còn hơn xa Việt Nam trong chế độ Cộng Sản, ngục tù đã đày đọa linh hồn thể xác tôi trong suốt sáu năm trời qua. Hơn nữa, tới Thụy Sĩ, trước mắt đang mở ra một cuộc đời mới với những nô nức và ước mơ còn đầy ắp trong lòng nên tôi vẫn vui, chấp nhận những gì mình hiện có. Tôi hăng hái từng bước vào đời.

Ngạn ngữ Tây Phương có câu: “Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn“, nhưng ở đây, theo tôi, “ngôn ngữ mới chính thực là cửa ngõ của linh hồn“, là chìa khóa mở tất cả cửa thành công, dù nhiều hay ít. Nghĩ vậy, chưa đặt chân đến, từ trại tỵ nạn tôi đã cố gắng tìm lớp học sinh ngữ.

Tiếng Đức rất khó. Nhất là văn phạm. Nhưng kỳ lạ, văn phạm dù với sinh ngữ nào, khi học, tôi không gặp khó khăn mà luôn có vấn đề đàm thoại: Nghe và nói. Thi viết, tôi thường nhất lớp. Thi nói, tôi lại chót lớp. Nghĩ có buồn không?

Biết nhược điểm của mình, tôi càng nỗ lực hơn. Ban ngày học tại trường chưa đủ, tối về lại “tranh thủ” học thêm. Tôi đọc tất cả bài vào băng cassette để đêm đêm đặt máy trên đầu giường “ru” tôi vào giấc ngủ!

Vài tháng đầu tiên tại Thụy Sĩ, dù thiện chí, tiếng Đức tôi vẫn chầm chậm theo chân… rùa! Lớp học chỉ tám người, chắp vá từ đủ thành phần trình độ tuổi tác khác nhau. Một “cụ” năm mươi vốn thích nhâm nhi rượu đế hơn ngồi trong lớp học, một bà nội trợ quen cầm dao thớt hơn sách vở, một cậu sinh viên, một thanh niên hai mươi tuổi, một cô gái tới lớp chỉ để biểu diễn thời trang v.v… và v.v… (Năm người cùng chuyến bay của tôi đều về vùng nói tiếng Pháp). Với lớp học như vậy, thật khó cho học viên. Càng khó hơn đối với thầy dạy. Đã vậy, vị thầy trẻ (độ 24 tuổi) còn tính ham chơi thiếu trách nhiệm. Gần như ông vắng mặt luôn để đám học trò tới lớp ngơ ngác, trông chờ ông như đàn gà con thiếu mẹ.

Một lần, thắc mắc mãi chịu không được, cả lớp bàn nhau kéo đến thông báo với văn phòng Caritas, nơi trách nhiệm đối với người tỵ nạn. Rồi sau đó tiện đường tìm đến nhà thầy để… hỏi thăm sức khỏe!

Thật không ngờ ngoài sức tưởng tượng, thầy chúng tôi chỉ vướng nặng bệnh… lười, nằm liệt giường, liệt chiếu (với một cô bạn gái!). Thấy chúng tôi đến bất ngờ, ông không khỏi ngạc nhiên, hơi bẽn lẽn một chút, vội thay áo quần, rồi xởi lởi mời cả lớp vào nhà. Cô bạn gái ông ra về liền ngay đó. Còn ông để khỏa lấp sự thiếu trách nhiệm của mình, ông ân cần… hối lộ cả lớp không biết bao nhiêu kẹo, bánh, sô-cô-la và bữa cơm chiều tại nhà do chị nội trợ của lớp đứng bếp.

Sau buổi đó, ông chuyên cần đến lớp không vắng mặt buổi nào. Nhưng vẻ chán nản, uể oải rất rõ nét nơi ông. Thỉnh thoảng, ông đưa cả lớp đi dạo. Lúc thì quanh phố, lúc vào công viên, khi đi xem sở thú… Ông viện lý do: Đi như vậy cũng là cách “học thực tế” đời sống bên ngoài. Một lần ông nói nhỏ với tôi, nhận thấy tôi tha thiết cầu tiến, dù mưa gió, bệnh hoạn tôi không nghỉ buổi học nào, ông đề nghị mời riêng tôi về nhà để ông kèm cho học. Lẽ đương nhiên tôi từ chối. Không hẳn tôi ngại dư luận, lời dị nghị đàm tiếu của cả lớp mà xé lẻ đi đêm không đẹp tí nào, còn bất tiện khi tôi một mình đến nhà ông (ông thuê nhà ở một mình), dù rằng tôi hơn ông những sáu tuổi! Hơn nữa, lần trước cả lớp đến nhà ông, chúng tôi còn khám phá thêm một diều “bí mật” về ông, đến nay “bật mí” tôi không khỏi bật cười! Trong phòng khách nhà ông, ông treo rất nhiều hình, đa số là những tấm hình ông chụp khi đi nghỉ hè và những sinh hoạt thường nhật. Nhưng trong khung hình bọc kiếng lớn cả thước, chi chít đầy ảnh cỡ 9 x 13 cm, đặc biệt có một tấm, tình cờ cả lớp nhìn thấy rồi cứ bụm miệng chúm chím cười. Vừa khi đó, ông đi trờ tới, đoán học trò đang “chiêm ngưỡng” tấm hình ông trở về thời… đồ đá, ăn lông ở lổ, ngồi xếp bằng trên bãi cát, hai lòng bàn chân châu vào nhau, tư thế giống đứa bé tám tháng tập ngồi. Thay vì… mắc cỡ lờ đi, ông thản nhiên đứng lại chỉ ngay vào tấm đó, khoe: “Tôi đó, tôi đó. Chụp trong ngày hội… cởi truồng”!

Đời sống ông “cởi mở, thoải mái” như vậy, thật lạ lẫm với tôi, nên nếu một mình đến nhà ông, tôi không khỏi hoang mang lo sợ: Sẵn “kèm” học, ông thản nhiên (như trai gái ôm nhau, hôn hít ngoài đường) rồi “kẹp” luôn tôi thì liệu làm sao?!

Ba tháng sau, ông… “mất dạy”. Lớp học cũng tan rã, tản mát mỗi người một phương. Từ đó không hề gặp nhau nữa.

Riêng tôi, rút kinh nghiệm từ lớp trước, tôi thăm dò xin bảo trợ theo học một khóa khác. Lớp mới thuộc tư nhân, mang tên “Trường Thông Dịch”, dạy cấp tốc mỗi buổi chiều hơn hai tiếng với ba trình độ: một, hai, ba. Mỗi khóa sáu tháng. Ngay lớp một, hầu hết học viên đều đã biết nói ít nhiều. Họ đến chú ý để lấy căn bản văn phạm và cách viết.

Lớp mới gồm 18 học viên, đầy đủ mọi sắc dân: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Nam Tư, Tàu… và riêng tôi duy nhất Việt Nam.

Trường Thông Dịch, giáo viên chuyên nghiệp, giáo trình quy mô đầy đủ nên học phí rất cao. Vì là tỵ nạn, tôi được đài thọ từ chính phủ qua hội từ thiện Caritas.

Nhưng cùng lúc tôi nhập vô lớp một, bảo trợ cũng xin cho tôi đi làm.

Công việc của tôi tại cửa tiệm bán bánh mì, bánh ngọt ban đầu thật đơn giản. Hàng ngày bảy giờ rưỡi sáng, tôi có mặt để xẻ những ổ Bürli (bánh mì tròn) trét bơ, đặt vài lát dưa leo chua, Salami (một loại thịt nguội giống lạp xưỡng Việt Nam) hoặc Jambon, rồi bọc từng ổ bằng lớp ni-lon, đem bày ngoài tủ bán. Xong việc, tôi phụ lò bánh gọt táo, xẻ đào, mận… để thợ làm bánh ngọt. Rảnh rỗi, bà chủ nhờ đi chợ, rửa rau, hoặc thỉnh thoảng giao bánh cho các ngân hàng. Đại để công việc linh tinh, vặt vãnh…Nói nôm na “đứng chờ người sai vặt”.

Việc học tiếng Đức của tôi bấy giờ cũng khả quan hơn. Nếu lớp trước tôi ví chậm như rùa, thì lớp sau nhanh như thỏ. Dù bài vở nhiều, giáo trình nhanh, nhưng sau khi đi làm, tôi vẫn cố gắng “chạy” sát chân thỏ. Không bỏ sót một bài, một chữ nào. Cuối khóa, làm bài thi trắc nghiệm khả năng, tôi nhất lớp. Tôi rất vui, không chỉ vì kết quả học tập của mình, mà còn vui vì không làm hổ thẹn danh dự người Việt tỵ nạn. Nhưng niềm vui ấy thoáng nhanh, khi tận đáy lòng tôi vẫn phảng phất một nỗi buồn, vì biết rằng: Nếu thi đàm thoại vấn đáp, chắc chắn tôi chót lớp. Rõ ràng suốt thời gian học, tôi nói vẫn ấm ớ, vẫn ngọng ngịu như trẻ lên hai. Vì thế, khi nghe cô giáo tuyên bố số điểm cao nhất của tôi, mọi học viên đều đổ mắt nhìn tôi rồi… “quàu” lên một tiếng ngạc nhiên.

Biết nhược điểm đó, ban đêm tại nhà cũng như lợi dụng thời gian ủi quần áo trên lầu tư trong căn phòng vắng lặng của bà chủ mỗi sáng thứ bảy, tôi cố tập nghe băng cassette. Tập trò chuyện với thợ với chủ, đôi khi hỏi chữ khó nữa…

Sau khóa một, thừa thắng xông lên, tôi xin bảo trợ tiếp tục khóa hai. Bảo trợ chấp thuận. Rồi cứ thế sáng tôi đi làm, chiều đi học, tối về nhà. Cuộc đời lặng lẽ trôi, tưởng bình thản êm đẹp, nhưng không dừng ở đó. Sóng gió bắt đầu nổi lên. Ban đầu chỉ là những áng mây đen, trời vần vũ rồi sau đó ùn ùn cơn giông ào đến.

Caritas đặt vấn đề với bảo trợ về việc làm và lương tháng quá ít, dưới mức quy định tối thiểu tại Thụy Sĩ của tôi. Lẽ dĩ nhiên, bà chủ, để chối bỏ sự bóc lột của mình, bà trút hết “tội lỗi” lên đầu tôi. Tôi không rõ bà nói với bảo trợ thế nào, vốn bản tính bộc trực, nóng nảy của một nông dân, bảo trợ chưa kịp suy xét đã buồn lòng buông ra những lời trách móc nặng nề: “Người tỵ nạn nghèo khổ đến đây nhận trợ cấp từ tiền đóng thuế của bọn tao, chúng bây làm việc phải đàng hoàng, không được làm biếng!”

Câu nói, tuy không trực tiếp với tôi, chỉ chung chung qua người Việt Nam khác cùng bảo trợ, song cũng làm tôi thương tổn tâm hồn. Cảm giác bị xúc phạm đến dân tộc, lòng tôi se thắt lại, đau đớn như muôn ngàn mũi kim đâm thấu vào tim. Tôi xét lại việc mình làm.

Thực sự, từ vài tháng về sau, khi quen việc, bà chủ “nhờ” tôi hết việc này sang việc nọ. Công việc mỗi lúc mỗi tăng. Tôi bắt đầu thấm mệt. Như buổi trưa, ăn cơm chung với gia đình bà, thay vì tôi cần vài phút nghỉ ngơi trước khi ra ga lấy xe lửa sang thành phố khác đi học, bà “nhờ” tôi hết xếp ly dĩa vào máy, xong đến rửa chảo, nồi, dần dà thêm lau cái bếp, máy hút hơi, lò nướng thịt (mà phải chà sạch như mới) v.v… Sau đó, với thời gian, bà nghiễm nhiên khoán trắng cho tôi phải thanh toán trong ngày trước khi tới lớp. Thời gian đi học rất xít xao, cụp rụp. Bà không hề hiểu điều đó. Trái lại, sẵn có người dọn, bà tha hồ xả thêm.

Tới lớp, cơ thể tôi rã rời, mệt nhoài. Nhưng tất cả điều đó, tôi cố gắng khắc phục. Tôi nghĩ, tương lai sự sống của tôi chắc chắn không vĩnh viễn nơi nhà bà. Chưa gặp lúc, tôi chỉ cầu mong hai chữ “bình yên” trước khi tính tới.

Ngày xưa, tài giỏi như Hàn Tín ở Trung Hoa, Đào Duy Từ ở Việt Nam. Với chí lớn “đội đá vá trời“, với tài năng “gầm sông nghiêng biển“, nhưng khi chưa gặp thời, đã im lìm nhẫn nhục như núi đá. Kẻ đã phải luồn trôn, xin cơm nhà bà Phiếu Mẫu; người ăn mày chăn trâu tại nhà phú ông. Còn tôi, phận tép tôm, nhằm nhò gì so với nỗi vất vả hôm nay.

Vì thế tôi âm thầm chịu đựng, không than van, kêu ca với bảo trợ. Ngay cả việc oan ức bực mình xảy ra tại nhà bà. Lúc đó, tôi mới đến làm việc non tháng, bà nhờ tôi đi chợ. Chín chục tiền dư (khoảng 50 USD), bà dặn tôi để trong ngăn kéo tủ. Thế nhưng, khi bà cần đến, số tiền đó không cánh mà bay! Tôi ngớ người ra, giương hai con mắt thao láo nhìn bà, khi bà hỏi đến. Một lúc thật lâu, sau cơn ngỡ ngàng, niềm cay đắng tràn dâng, nước mắt đoanh tròng, tôi nghẹn ngào lắc đầu, miệng lắp bắp ba chữ: Tôi không lấy! Tôi không rõ bà tin hay không. Về nhà, tôi kể chuyện với em gái. Hương khuyên tôi nên nghỉ việc vì nơi đó không tốt. Song tôi lại nghĩ khác. Nếu nghỉ việc bấy giờ, bà có thể cho rằng tôi ăn cắp, xấu hổ nên bỏ đi. Tôi phải ở lại. Tôi cần thời gian để chứng minh “cây ngay không sợ chết đứng”, “vàng thiệt không sợ lửa“.

Những ngày sau đó, trong nhà bà, vàng vòng lắc nhẫn… (cho đến bây giờ tôi vẫn không phân biệt được thế nào là thật, giả), không rõ bà quên hay cố ý để rải rác trên thành tủ, kệ. Bà thử tôi chăng? Tôi mỉm cười một mình, lòng buồn buồn nhìn ra sự tầm thường của cuộc sống. Không lẽ cứu cánh của cuộc đời là những sợi dây chuyền? Là sự lấp lánh ở những ngón tay? Chói chang ở cổ, ở tai? Hay giá trị đích thực của con người mới là cái ánh sáng phát ra từ tâm, trí để biến chính người đó thành hạt kim cương? Và oái oăm thay, hạt kim cương muốn đời trang trọng nâng niu lại cần đời mài giũa!

Còn lương hướng, ngay ban đầu làm việc tại nhà bà, tôi không hề bàn tới. Phần tiếng Đức ấm ớ, phần bỡ ngỡ trước cuộc sống mới, tôi biết gì để bàn. Mọi sự đều qua trung gian: Bảo trợ, Caritas và bà chủ. Tôi như con cơ, cứ nhẹ nhàng chạy theo ngón tay của mọi người.( Cũng xin nói thêm ở đây. Mọi chi phí cho cuộc sống người tị nạn mới đến Thụy Sĩ đều được tài trợ từ chính phủ qua trung gian của hội Caritas và bảo trợ. Nếu đi làm thì lương sẽ bị khấu trừ đi)

Tôi làm việc được hai tuần, trong một bữa cơm, bà chủ đặt vấn đề muốn “tặng” tôi một món quà, như “thưởng” công tôi làm việc. Rồi cứ thế, thường mỗi hai tuần hoặc lâu lâu bà tặng, khi thì chiếc áo thun, lúc con dao, đồng hồ (không phải Rolex hay Omega… đâu nhé!!!). Về sau, để tiết kiệm thời gian, tiện việc, thay vì mua quà, bà đặt vào phong bì một món tiền tượng trưng để tôi tùy nghi sắm sửa. Nếu bảo đó là lương thì quả là đồng lương bóc lột. Tôi không kêu ca, nhưng chính Caritas lại lên tiếng.

Kể từ hôm đó, “lương” tôi được tăng gấp đôi, nhưng tôi không lấy làm vui khi nhớ câu phàn nàn vô căn cớ của bảo trợ. Với cảm giác rạn nứt trong lòng, tôi e dè sợ sệt trước cuộc sống. Có phải tôi đã mang tâm trạng của một chim câu ngơ ngác ra ràng, vừa rời khỏi tổ đã hoảng hốt giựt mình khi nghe tiếng động mạnh. Tại nhà bà chủ, cũng từ hôm đó, tôi ý tứ cẩn thận từng cử chỉ hành động. Tôi không còn dám hỏi bài các cô thợ, càng không dám trò chuyện với ông chủ (chồng bà) và cũng không dám nghe cassette tại lầu tư khi ủi quần áo. Tôi sống khép  kín hơn, cố gắng tránh né những đụng chạm không cần thiết. Sự đời tưởng đã yên, nhưng vẫn chưa dừng ở đó. Tôi càng thu mình về thì bà càng tiến lên. Số tiền lương tăng gấp đôi, bà không chịu mất trong ngân quỹ nhà bà. Tăng lương thì tăng việc. Bà cho một người phụ việc nghỉ, rồi khéo lái tôi đưa tôi vào thay thế. Công việc cũ, cộng thêm công việc mới khá nặng nề: Hút bụi và lau chùi cửa kiếng bốn tầng lầu nhà bà… Không lẽ tôi từ chối? Không lẽ tôi xin nghỉ việc? Tôi phải nói sao đây với bảo trợ, khi bảo trợ đã từng hiểu lầm về người tị nạn. Còn chê công việc ư? Không đâu! Tôi thất thế, tôi không ngại bất cứ một việc nào. Hơn nữa, với tôi công việc nào cũng trọng cả. Nghề nào cũng có giá trị riêng. “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ“. Hơn thua là sự hiểu biết và tư cách con người. Nhưng sức tôi có hạn. Tới lớp, thân xác tôi vốn rã rời, giờ càng thêm rời rã. Một thân thể không khỏe mạnh, tâm trí không minh mẫn. Tôi lờ đờ như người say rượu. Giờ giải lao, trong khi cô giáo cùng học viên kéo nhau đi uống cà phê, tôi thoái thác một mình ở lại gục mặt xuống bàn nhắm mắt nghỉ. Bài vở lớp hai lại rất nhiều. Nếu lớp một là thỏ chạy, thì lớp hai là phản lực. Với tâm hồn nặng trĩu, buồn chán thất vọng tràn đầy, cô đơn nhớ nhà da diết, tôi học tụt hẳn xuống. Tôi đuối, không phải vì chán học hay không hiểu bài mà không đủ thời gian và sức lực. Tôi ưu tư về tương lai. Thăm dò đường đi tới. Đại Học tại Thụy Sĩ rất khó. Một sinh viên đòi hỏi tối thiểu hai, ba sinh ngữ. Ngay dân bản xứ, số người học đại học chỉ chiếm 6%. Nghề vớ vẩn như uốn tóc, thợ may, sửa đồng hồ, bồi bàn, bán hàng… Phải đào tạo từ hai đến ba, bốn năm, đôi khi còn kén tuổi tác nữa. Nhìn về tương lai, nơi đây đối với tôi, không phải vùng đất hứa. Cũng không tìm thấy tình người. Tôi thoáng nghĩ đến việc trốn đi! Phải, ở đường cùng, không đủ sức đương đầu chống chọi với đời, với người, muốn tự cứu mình “Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng” (Ba mươi sáu kế, chạy là thượng sách). Nghĩ vậy, tôi viết đơn gởi đến Tòa Đại sứ Hoa Kỳ xin du lịch viện lý do thăm bà con, rồi tiện thể trốn luôn ở đó. Tiếc thay, đơn bị từ chối vì chính sách của Hoa Kỳ chưa cho phép người tỵ nạn chưa ổn định công ăn việc làm đến nước họ. Thất vọng, nhưng tôi vẫn cố “còn nước còn tát“. Tôi viết tiếp đơn thứ hai, thứ ba với lời cầu xin tha thiết thăm người nhà, thòng thêm lời “hăm dọa” tôi buồn, tôi muốn chết!

Chỉ là lời hăm dọa suông, nhưng khi đơn bị bác, tuyệt vọng, tôi muốn chết thật. Tôi buông xuôi nằm bẹp dí như cánh chim đại bàng đang bay bổng trên không bị trúng tên rơi ngay xuống đất. Cái đau đớn của vết thương cùng đôi cánh gãy khiến tôi ê ẩm khắp châu thân. Nhưng cái đau của thể xác chả thấm vào đâu so với nỗi đau của tâm hồn. Khi trí óc tôi còn đủ tỉnh táo để nhận thức rõ lòng và ý chí vẫn muốn vươn lên. Tôi không thể nằm bẹp mãi nơi đây để cho đời chà đạp. Nhưng càng muốn cựa mình ngoi lên thì vết đau ê chề, càng làm liệt dần ý chí. Tôi muốn chết mà không sao chết được. Những ý nghĩ miên man sống, chết chờn vờn mãi nơi tôi dẫn tâm hồn tôi chơi vơi về bên kia đại dương, nơi đó có hai người, chồng và bố chồng tôi, đang ngày đêm trông ngóng đặt niềm tin và hy vọng ở tôi: “Nếu em có ra đi, hãy nói cho thế giới tự do biết về chế độ Cộng Sản, nói về cái gọi là “học tập cải tạo” để họ can thiệp giúp anh và các bạn tù của anh!”. Nói, nói, nói… tôi vẫn chưa “nói” được để tự giúp tôi, thì còn giúp được ai?! Nghĩ đến người thân, đến bao kẻ còn kẹt tại Việt Nam đang mơ ước vị trí của tôi, lòng tôi dịu xuống. Đúng rồi, tôi cần phải sống. Can đảm mà sống. Vì sự sống của tôi hiện giờ ít ra cũng là tia sáng le lói cuối đường hầm, để chồng tôi ngóng về trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của chàng. Tôi không nghĩ nhiều đến cha mẹ ruột. Không phải tôi không thương, không nhớ đến cha mẹ mình, nhưng ông bà nhiều con cháu và vẫn rất khá giả, tôi không phải quan tâm lo lắng. Còn cụ Đang (bố chồng tôi) gần 80 tuổi, cô quạnh trong căn nhà trống rỗng (Cụ di cư vào Nam chỉ có hai bố con), nhà rất nghèo, những số tiền vay chưa trả cứ chồng chất thêm lên. Tôi không thể quay lưng. Hay đúng hơn, tôi không… nỡ quay lưng. Lương tâm tôi không cho phép. Thế thì tôi phải sống. Sống vì người khác mà sống!

Tự an ủi, dỗ dành mình như vậy, tôi không nghĩ đến cái chết nữa. Nhưng nỗi buồn tủi hằng đêm cứ theo tôi vào giấc ngủ, để bất chợt thức giấc, tôi thấy nước mắt tôi đầm đìa. Những giọt nước mắt lặng lẽ, như suối, theo nhau chảy dài trên áo gối, thấm cả vào lòng gối bên trong, khoáng lên, loang dần thành những áng mây xám xịt.

Hằng ngày, tôi uể oải đến nhà bà chủ rồi tới lớp. Chỉ mới gần một năm tại Thụy Sĩ, tôi bỗng trở thành người khác. Tôi sụm ngay xuống, xơ xác, tiều tụy như cái xác biết đi. Những chuyển biến nội tâm, tôi không biết tâm sự với ai, mà cũng chẳng có ai để tỏ. Em gái tôi thì nó theo chồng. Nó sống đời của nó. Với lại, tôi cũng không muốn nói để Hương thêm lo lắng và buồn.

Căn nhà bảo trợ thuê cho tôi tọa lạc dưới chân đồi ở ngoại ô của một thành phố nhỏ. Bên ngoài căn nhà rất cũ kỹ, tồi tàn, tương phản với bên trong rất mới, rộng, đẹp, khang trang và thơ mộng. Những vách tường gỗ, thảm len tạo căn phòng ấm cúng hẳn lên. Nhà rất nhiều cửa kiếng với Balkon rộng hướng về đồi cỏ xanh, vào mùa hè cỏ mượt mà như tấm thảm nhung trải rộng đến đỉnh đồi. Trái lại vào mùa đông thì đất trời ảm đạm, tuyết phủ lạnh lùng trắng xóa.

Căn nhà nằm lẻ loi không đụng vách với hàng xóm. Chiều tối dưới ngọn đèn vàng dìu dịu quả là lý tưởng cho những cặp tình nhân hay đôi vợ chồng son xây tổ uyên ương. Nhưng so với tâm trạng và hoàn cảnh của tôi bấy giờ thì thật là thê thảm. Chiều xuống, tiếng quạ kêu oang oác gọi đàn, tạo cho tôi cảm giác rờn rợn ma quái. Dù mùa hè hay mùa đông, khi trời tắt nắng, âm u, tôi khóa trái hết tất cả cửa, lên giường, trùm chăn kín mít đầu, ngủ sớm. Giấc ngủ thường chờn vờn khó đến. Cái vắng lặng yên tĩnh như bãi tha ma cho tôi nỗi bất an. Tôi quen sự nhộn nhịp tại Việt Nam, ở đảo và cho đó mới là sự sống!

Nhiều khi đứng bên khung cửa sổ, ngắm bầu trời bao la xanh ngát rộng mở tận chân trời, tôi bâng khuâng tự hỏi sao tôi lại đứng đây như chim bị nhốt trong chiếc lồng son. Và chiếc lồng son đó bị đời bỏ quên trên ngọn đồi vắng. Chim muốn vùng vẫy xổ lồng tung bay để thóat cảnh chim lồng hiện tại, nhưng không làm sao được chỉ còn thoi thóp cất tiếng kêu dù chim chíp.

Việc học của tôi càng lúc càng tụt dốc. Bài vở mỗi ngày càng chồng lên nhau. Đúng ra, những gì của hôm nay, chớ để ngày mai. Tôi đã để không biết bao việc “hôm nay” dồn đống, dồn đống. Tôi choáng ngộp trước bài vở đang chờ đợi. Giá buổi sáng tôi được ở nhà, không đi làm, tôi có thể thảnh thơi thân xác, tâm trí, ngồi tra tự điển tất cả chữ mới rồi ngấu kỹ trước khi tới lớp. Ở xứ người, sinh ngữ là đầu cầu bước sang bờ tương lai. Để gãy cầu coi như mình không lao đầu xuống vực thẳm thì cũng là đà ở bờ vực.

Một ngày, cô giáo mon men đến hỏi thăm: “Em khỏe không?”. Câu hỏi như nhìn thấu suốt tâm tư tôi, như xé toạc vết thương lòng đang nhức nhối. Cổ tôi nghẹn lại, tôi không nói thành lời, chỉ đứng òa ra khóc. Đê đã vỡ! Thác lũ đang ào ào đổ xuống. Tôi không thể lặng yên mãi. Phải tính thôi. Và, lại một lần nữa “tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng“.

Tôi điện thoại cho bảo trợ, nhờ họ trình bày với Caritas can thiệp với Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ cho tôi định cư tại Mỹ (tôi có diện đi Mỹ mà!). Tôi không giải thích rõ tại sao, chỉ nêu nguyện vọng, ở Mỹ đông người Việt, nhiều người đồng cảnh ngộ như tôi, tôi sẽ dễ dàng nương theo họ mà sống. Còn Thụy Sĩ vắng vẻ chơ vơ, tôi sẽ chết dần chết mòn trong cô quạnh!

Nhưng ông Hội trưởng Caritas địa phương, qua sự việc lần trước, ông không hoàn toàn tin như thế. Dường như, ông cảm nhận một cách tinh tế có điều gì ẩn sâu trong vấn đề. Ông muốn gặp riêng tôi tại nhà tôi kèm với thông dịch viên của hội.

– Caritas là cơ quan từ thiện giúp đỡ vật chất lẫn tinh thần cho người tỵ nạn. Hôm nay chúng tôi đến đây mong được nghe tất cả nỗi niềm cũng như những khó khăn cô gặp phải tại Thụy Sĩ với hy vọng có thể giải quyết mọi vấn đề. Trước khi đến đây, tôi đã gọi điện thoại nói chuyện với bà chủ cùng cô giáo của cô. Bà chủ nói mọi việc vẫn bình thường. Còn cô giáo thì hết lời ca ngợi và rất thương mến cô. Cô siêng năng chăm chỉ, hiếu học và học khá. Nhưng không hiểu sao gần đây, cô học tụt hẳn đi, luôn trầm tư một mình, xa lánh mọi người. Cô giáo đến hỏi thăm, cô không trả lời chỉ đứng khóc.

Lời của ông Hội trưởng Caritas như liều thuốc xoa dịu các vết thương ở lòng tôi. Tôi tìm thấy sự an ủi, cảm thông, hiểu biết ở nơi ông, nên chầm chậm trong nước mắt ràn rụa, tôi kể hết mọi nỗi niềm, rồi kết luận:

– Tôi đến Thụy Sĩ với hai bàn tay trắng. Ngoài cô em gái yếu đuối, tôi không có họ hàng thân thích nào khác, kể cả bạn bè. Được sự giúp đỡ tận tình của quý vị, tôi vô cùng cảm kích, không biết lấy gì đáp đền ngoài sự “vâng lời” để tỏ lòng tri ân. Nhưng tôi nghĩ bước đầu tại Thụy Sĩ, việc học tiếng mới là quan trọng chứ không phải việc làm. Và nếu có làm thì cũng nên làm vừa phải chừng mực để tôi còn đủ sức với thời gian học hành. Bấy lâu, tôi không muốn kêu ca hay phản đối vì chưa tìm thấy sự cảm thông từ mọi người. Không còn cách nào hơn, tôi chỉ muốn rời đây để khỏi phải làm phiền quý vị.

Ông Caritas ghi chép tất cả lời tôi kể. Ông tỉ mỉ hỏi tôi từng chi tiết về việc làm, việc học và hết sức ngạc nhiên, tôi làm việc không có giờ giải lao. Còn lương của tôi so với thời gian và công việc tôi làm thì quả là bà chủ chỉ trả tôi một phần năm (1/5) so với mức ấn định. Rồi để sự việc minh bạch công bằng, không thể nghe từ một phía, ông hẹn tôi, mời cả bà chủ và bảo trợ tại văn phòng ông để đối chất.

Ngày mọi người hội tụ ngồi đợi sự hiện diện của bà chủ thì bà lại không đến. Sự thoái thác bất ngờ viện dẫn lý do nhà có người đau tim, bà phải đưa vô bệnh viện gấp, cũng đủ trả lời tất cả sự thật. Ông Caritas cho phép tôi được nghỉ việc, vẫn được cấp lương, tôi chỉ ở nhà chuyên tâm học hành. Ông còn hứa hẹn trực tiếp giúp tôi khi tôi cần đến. Nhưng lòng tôi đã chấn thương. Tôi cảm ơn sự quan tâm ưu ái của ông và không muốn làm phiền ai nữa.

Hết khóa hai, tiếng Đức cũng vừa đủ để tôi tự kiếm việc làm, mong sống đời tự chủ, tự lập. Con chim trời hãy để nó tung bay, dù cơn lốc 30 tháng tư năm 75 đã thổi tung tổ ấm, xô giạt nó tơi tả tấp vào một chân trời xa lạ. Chim đã quen phong ba, bão tố. Giờ bình minh đã ló dạng, chim có thể tự kiếm ăn, chờ ngày thật quang đãng, nhập đàn dựng xây lại tổ ấm.

*****

Sáu rồi tám năm sau, thời gian vừa đủ để những đắng cay, gian khổ cho tôi những kinh nghiệm sống. Luyện tôi thành người có sức chịu đựng dẻo dai, dọn sạch chông gai, lót gạch hoa cho chồng và đứa con trai nuôi của chúng tôi lần lượt định cư tại Thụy Sĩ thênh thang tiến bước.

Sự thành công của cả hai đã là niềm vui, an ủi cho quãng đời mà phước duyên, may mắn, quý nhân chỉ đến với tôi sau một thời gian dài phấn đấu đầy thử thách. Thà là vậy, trong họa tìm thấy phúc, còn hơn trong phúc rồi mới thấy họa. Phúc họa luôn song hành mà!

Bây giờ mọi sự đã trôi qua. Sau cơn mưa, trời lại sáng. Những chuyện xưa như một giấc mơ, tôi gói ghém xếp tất cả vào hồ sơ kỷ niệm để những lúc trà dư tửu hậu, nhắc đến suy ngẫm cuộc đời, tôi thấm thía biết bao câu nói của thi hào Nguyễn Du:

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

Cùng lúc tôi cũng nhìn ra, tôi cần phải tu thêm, vì phước duyên của mình còn nhỏ.

Trần Thị Nhật Hưng

Chiếc ghe tỵ nạn nhỏ nhất vượt đại dương

0

Ngày 6 tháng 5 năm 2023, Viện Bảo tàng Di Sản Người Việt, Vietnamese Heritage Museum, đã tổ chức một ngày hội ngộ các thuyền nhân và trình bày chiếc ghe bé nhỏ của 9 người đi tìm tự do năm 1984. Sau phần chào cờ và mặc niệm, chương trình buổi lễ gồm ba phần chính:

Giới thiệu Viện Bảo tàng Vietnamese Heritage Museum, giới thiệu 5 thuyền nhân và các hậu duệ, tham quan chiếc ghe mà họ dùng gần 40 năm trước.

Ông Châu Thụy, sáng lập viên cũng là Giám-Đốc Viện Bào Tàng Vietnamese Heritage Museum nhấn mạnh về biến cố vượt biên của người Việt-Nam sau 1975, sự cứu vớt các thuyền nhân tị nạn. Sự giúp đỡ của thế giới tự do, biểu hiện tính nhân đạo bằng cách chấp nhận cho định cư dân tỵ nạn nói chung… Ông cũng muốn nhắc cho giới trẻ sau này biết được những cha ông họ đã cương quyết ra đi, hy sinh và trả một giá quá đắt, một sống một chết cho hai chữ tự do. Những thành quả mà ngày nay con em có được một phần lớn cũng nhờ quyết định dứt khoát ra đi của cha ông minh…

Ông Châu Thụy cũng cho biết những khó khăn trong suốt ba năm thương lượng để có thể đưa được chiếc ghe từ Pháp về California nơi mang danh Thủ Đô của người Việt Tỵ Nan Cộng-Sản. Những khó khăn bao gồm nhiều mặt về tình cảm, về pháp lý, về địa điểm trưng bày, về chuyên chở và về tài chánh. Nghe nói chi phí lên đến ba mươi ngàn đô la Mỹ.

Qua phần giới thiệu, chúng ta được biết có 5 trong 9 thuyền nhân và gia đình đến tham dự buổi hội ngộ này. Người đến xa nhất là anh Nguyễn Anh Dũng, từ Nhật Bản. Khi ra đi năm 1984, họ còn rất trẻ. Người cao tuổi nhất mới 23 (Phùng Văn Tài và Nguyễn Anh Dũng) và người trẻ nhất mới 12 (Nguyễn Xuân Phát). Về phái tính có ba thanh nữ: Nguyễn thị Mỹ Phương, Nguyễn thị Mỹ Hạnh và Phạm thị Thanh Hẳng. Cả ba đều 19 tuổi. Anh Phạm Đức Nguyên, 22 tuổi, ngưới lái ghe, tài công, kiêm thuyền trưởng (những người trong nhóm gọi đùa là xuồng-trưởng). Sau này có tin vui là anh Nguyên lập gia đình với cô Thanh Hằng. Khán giả ồ lên chúc mừng. Chúng tôi nhận thấy chỉ có 4 gia đình (1 người từ Nhật đi một mình) mà con cháu khá đông. Các cháu đang tuổi thanh niên, vạm vỡ, hòa nhã và rất vui tính, hứa hẹn một tương lai rạng rỡ.

Một đại diện của nhóm hậu duệ, mặc quân phục được mời lên diễn đàn. Đại ý em cám ơn cha ông đã can đảm ra đi tìm tự do cho mình và cho toàn thể con cháu sau này. Em nói lên những giá trị văn hóa cổ truyền của Việt Nam đáng trân trọng. Em có nhắc đến “Cái Nhà“, nơi gia đình trú ngụ, nơi hun đúc tình gia đình ruột thịt, là một tổ ấm thân thương, có nhau khi vui khi buồn, nơi quay về khi tìm lại một lời an ủi. Em cũng nói đến một sự cảm thông, một trân trọng trong giao tiếp nơi xứ người… Bài viết của em đã được ban tổ chức xin giữ lại làm tài liệu.

Phần cuối của chương trình là nhìn lại cái ghe nhỏ bé. Ban tổ chức muốn dành ưu tiên cho các thuyền nhân và gia đình nhìn lại cái ghe đã đưq họ đến bến bờ tự do. Họ không thể ngờ họ có thể nhìn lại cái ghe đó sau gần 40 năm xa cách. Lý do một phần có lẽ nó nhỏ gọn dễ bảo quản. Thường thì khi đến nơi các thuyền nhân được dưa về các trại tỵ nạn. Họ không còn biết số phận các ghe chở họ ra sao. Đối với các ghe tỵ nạn được tàu ngoai quốc vớt ngoài biển khơi, sau khi vớt người, các ghe bị đánh chìm dù rằng nó đã hỏng máy và tơi tả. Năm 1981, khi tàu Hòa-Lan Smit-Lloy12 vớt người xong, chính thuyền trường và người viết xuống kiểm tra lần chót xem có ai chết hay bị bỏ quên rồi mới đánh chìm. Nhìn cái ghe khi bị chiếc thương thuyền to lớn lùi đè lên tan từng mảnh vụn, thật đau lòng. Có người cảm thấy bất nhẫn. Con người được cứu vớt nhưng con thuyền bị đánh chìm. Có một chút gì đó vong ơn !

Chiếc ghe của 9 thanh niên vượt biển dài không quá 6 thước và bề ngang không quá 2 thước. Nó không lớn hơn chiếc tam bản bao nhiêu. Tuy vậy nó cũng có một cabin. Ghe toàn bằng gỗ và không có máy. Ghe chạy được nhờ buồm, gió thổi và sức người chèo thay phiên nhau. Ghe có gặp bão nhưng nhờ kinh nghiệm nương theo làn sóng của tài công nên mới sống còn.

Viện Bảo-Tàng Di-Sản Người Việt đã liên lạc được với Viện Bảo Tàng Hàng-Hải tại Thành phố Le Havre, Pháp,nơi lưu giữ chiếc ghe trên để đem về Little Saigon. Cuộc thương lượng kéo dài ba năm khó khăn và tốn phí. Nếu không có công lưu giữ tại Pháp, chiếc thuyền đã không có được may mắn hôm nay. Chiếc ghe kể như hai lần vượt biến: Lần đầu 1984 với 7 ngày đêm; 38 năm sau, 30 ngày từ Pháp về California, vượt gần 10 ngàn hải lý.

Nhìn hình dáng thì chiếc ghe thuộc loại đi sông rạch chứ không thuộc loại vượt biển khơi. Không ai có thể tin nó có thể qua 7 ngày trên biển khi giông tố. Phép lạ và niềm tin đã cứu họ. Một thuyền nhơn cho biết Anh đã nhìn thấy ánh đèn ở đài Đức Me. Anh cho ánh sáng đó đã dẫn anh tới bến an bình!

Ngoài chiếc ghe và hình ảnh ghi lại nhật ký từng ngày, chúng tôi còn thấy một số vật dụng như 4 cái la bàn, túi xách, mái chèo, mỏ neo… Một vật tuy nhỏ nhưng đã lay động lòng người. Đó là “nhúm đất Quê Hương” đặt trong lồng kính do một bà lớn tuổi đã mang tới. Đúng là ta đi mang theo Quê Hương!

Phần trình diễn văn nghệ của Hội Trống Thiên-Ân thật xuất sắc. Trong các em đánh trống có em mới chừng 5 tuổi.

Với tư cách một khán giả mà cũng là một thuyền nhân, xin nhớ ơn Viện Bảo Tàng thành phố Le havre, Pháp đã có công lưu giữ và nhất là đồng ý chuyển nhượng chiếc ghe trên cho Viện Bảo-Tàng Di Sản Người Việt. Đoc qua bài báo của Thành phố Le Havre và vùng phụ cận để biết người Pháp cũng rất trân quý chiếc ghe mà họ đã trưng bày trong bao nhiêu năm mà nay đành xa cách “Một chiếc ghe mang những nỗi đau buồn lịch sử mới rời thành phố (Le Havre) để về California“ (Un bateau charge’ d’une douloureuse histoire va qutter la ville pour la Californie).

Cám ơn Viện Bảo Tàng Vietnamese Heritage Museum đã tổ chức ngày hội ngộ không những cho các thuyền nhân chiếc ghe “Con Thuyền Hy Vọng“ mà còn cho các thuyền nhân nói chung hay hơn nữa cho toàn thể cộng đồng tỵ nạn người Việt tại Hoa-Kỳ.

Đa tạ…

Tạo Trần

“Má ơi! Con vịt chết chìm”

0

Tôi vốn người miền Bắc, quê quán ở xứ lụa La Phù, Hoài Đức, Hà Đông, được thấm đẫm những lời ru “Ạ ơi ơi, Ạ ời ời” đầy tình tự quê hương từ thuở nhỏ. Tình cảm đối với điệu ru ấy là trường cửu, là vĩnh viễn, là bất diệt.

Thế rồi, cuộc đời đưa đẩy, mười năm lăn lóc ở Vĩnh Long, và Trà Vinh giúp tôi biết đến và yêu mến vô cùng những câu hát “Ầu ơ”. Sau này, dù đi đâu, về đâu, ở đâu thì những câu hát điệu hò ấy vẫn mãi mãi còn nguyên trong ký ức. Đây là vài câu hát tiêu biểu của điệu ru “Ầu ơ” phương Nam ấy:

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắt lẻo, gập ghềnh khó đi

Khó đi, mẹ dắt con đi

Con đi trường học, mẹ đi trường đời

Má ơi đừng gả con xa

Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu

Bước ngang qua nhà má

Tay tui xá

Cẳng tui quỳ

Vì thương con má sá gì thân tui

Chiều chiều ong nữ đi đăng

Cá tôm nhảy hết nhăn răng cười hoài

Má ơi con vịt chết chìm,

Con thò tay con vớt,

Con cá lìm kìm nó đớp tay con!…

Một điều lạ lùng là nội dung những câu hát ấy nhiều khi đơn sơ lắm, thậm chí… vô nghĩa nữa… nhưng hiệu quả thấm nhuần của chúng vẫn là vô cùng vô tận: mãi mãi đi sâu vào lòng người, nghe một lần rồi không thể nào mà quên đi cho được!
“Má ơi! Con vịt chết chìm”

Lại nói về mấy câu hát:

Má ơi! Con vịt chết chìm

Con thò tay con vớt,

Con cá lìm kìm nó đớp tay con”

Tôi tách ra thành ba dòng, nhưng thật ra xét về mặt hình thức, chỉ có hai câu thuộc thể loại “Lục bát MORE” (Lục bát thêm vào):

Má ơi ! Con vịt chết chìm

(Con thò tay con vớt) Con cá lìm kìm nó đớp tay con

Vần được gieo ở chữ thứ tư trong câu bát chính thể (chìm – kìm).

Lời thơ thì vô cùng đơn sơ, với những hình ảnh chân quê “con vịt, con cá lìm kìm”. Thật là bình dị thế thôi, không có văn chương, hoa hoè, hoa sói chi hết!

Về mặt nội dung, khởi đầu bằng tiếng gọi “Má ơi!” ngọt ngào, dễ thương. Tiếp ngay theo đó là cái hình ảnh ngược đời “Con vịt chết chìm”, “Cá lìm kìm đớp tay con”. Vịt thì có chết chìm bao giờ? Cá lìm kìm cũng vậy nữa, con cá nhỏ xíu chuyên bơi lội trên mặt nước này hễ thấy nước xao động là… nhảy, là lặn mất tăm luôn, nó có bao giờ cắn, đớp, hoặc chích ai đâu!

Nhưng chính từ những cái ngược đời ấy mà thể hiện được hình ảnh một cô gái bé nhỏ rõ là thơ ngây, đang nhõng nhẽo mẹ!

Đọc lời thơ chân quê ấy đã thấy hay, nghe ru “Ầu ơ” mấy câu ấy lại càng thấm thía, nhớ đời vậy. Cái ngày mà tôi được nghe ru Ầu ơ mấy câu ấy cách nay đã lâu lắm rồi, chính xác là 29 năm. Hai mươi chín năm ròng, các bạn ạ! Hai mươi chín năm nhưng “Con vịt chết chìm” và “Con cá lìm kìm đớp tay” vẫn như còn quanh quất đâu đây!
Gặp Lại “Con cá lìm kìm”

Ngày đó, trong một lúc buồn tênh, thả lòng vòng trong trang thơ Trinh Nữ, tôi tình cờ gặp lại những hình ảnh thân thương ấy trong bài thơ “Hát về con mương nhỏ” của tác giả Thu Nguyệt do thi sĩ Huyền Lâm giới thiệu.

Với mật độ mỗi ngày đăng hơn 50 bài thơ mới, một bài thơ nào đó dù vừa mới ra lò, cũng nhanh chóng bị các bài đăng sau đẩy lùi xuống tận… trang 5. Do đó, có rất nhiều bài thơ hay chưa kịp xem đã… mất hút ! Người đọc nếu bận rộn một chút, sẽ dễ dàng bỏ lỡ những bài ấy.

Bài thơ “Hát về con mương nhỏ” này cũng vậy, nó được anh Huyền Lâm giới thiệu, đăng ngày 26/9, và nửa tháng sau, khi tôi tình cờ xem được thì nó đã ở tuốt tận trang thứ 78!

Xin mời các bạn cùng đọc lại bài thơ ấy:

Hát về con mương nhỏ

Thu Nguyệt

“Má ơi! Con vịt nó chết chìm…

Con thò tay xuống vớt cá lìm kìm nó cắn tay con”

Con mương nhỏ mỗi chiều tôi nghịch nước

Chú cá lìm kìm đang cắn khúc Ca Dao

Mười năm qua không ai đắp ai đào

Lá tre rụng con mương sâu thành cạn!

Chú cá lìm kìm giờ đây bỏ bạn.

Trôi dạt phương nào theo lời mới dân ca?

Chiều nay buồn tôi trở lại quê nhà

Tay khỏa nước gọi lìm kìm đâu hỡi?!

Mười năm nữa con mương thành lộ mới

Mẹ tôi rồi phải quét lá tre rơi!

Tôi trở về nhớ mãi nước mương vơi

Những mắt cá lìm kìm đầy cơn khát.

Con vịt có chết đâu mà tôi buồn tôi hát?

Để cá lìm kìm cắn mãi trái tim tôi!

Thu Nguyệt & Huyền Lâm giới thiệu để nhớ về Tố Quyên – BN – Th.Nguyệt

Một luồng cảm xúc bất chợt nổi dậy trong tôi, chẳng khác nào một luồng điện xẹt ngang qua vậy!

Mở đầu vẫn là những hình ảnh “Con vịt chết chìm” và “Con cá lìm kìm” thân quen, xa xưa ấy, nhưng tác giả không nói về một cô bé nhõng nhẽo mẹ, mà khéo léo dùng chúng như một cách “nhập đề ngẫu hứng”, để nói về một hình ảnh, một câu chuyện khác: Hình ảnh một con mương xưa đầy nước, với những chú cá lìm kìm bơi lội nhởn nhơ, mơ màng… cắn khúc ca dao (!). Ý tưởng cá lìm kìm mê ca dao thật là đặc sắc vậy!

Con mương nhỏ mỗi chiều tôi nghịch nước

Chú cá lìm kìm đang cắn khúc Ca Dao

Bất chợt, mạch thơ chuyển gắt sang “chuyện đời tang thương, dâu bể”, do quy luật của tự nhiên (lá tre rụng) hoặc do sự vô tâm, hoặc thiếu quan tâm của con người mà giờ đây con mương nhỏ nên thơ ấy đã dần dần cạn nước.

Mười năm qua không ai đắp ai đào

Lá tre rụng con mương sâu thành cạn!

Hậu quả là những con cá lìm kìm ngày xưa ấy giờ đã đi xa, không về con mương ấy nữa.

Chú cá lìm kìm giờ đây bỏ bạn

Trôi giạt phương nào theo lời mới dân ca

Chuyện tang thương dâu bể nào cũng buồn cả, đặc biệt với những tâm hồn sâu lắng, thì cái buồn sẽ mênh mang vô tận, dẫu chỉ là cái hình ảnh tượng trưng “con mương đầy, khô cạn”. Tâm sự của người trở về đứng trước con mương cạn, vắng bóng cá lìm kìm mới thắt lòng làm sao:

Chiều nay buồn tôi trở lại quê nhà

Tay khỏa nước gọi lìm kìm đâu hỡi?!

Mười năm nữa con mương thành lộ mới

Mẹ tôi rồi phải quét lá tre rơi!

Đưa được hình ảnh người mẹ già còng lưng quét lá tre rơi vào đây thật là tinh xảo! Chính câu này đã làm sâu lắng thêm, gợi cảm hơn cho toàn bài thơ vậy!

Đặc biệt, nỗi buồn mênh mang của tác giả hiện hữu không chỉ lúc đối diện con mương, mà sau này, khi đi xa rồi, nỗi buồn ấy vẫn trầm trầm đeo đẳng:

Tôi trở về nhớ mãi nước mương vơi

Những mắt cá lìm kìm đầy cơn khát.

Đến hai câu kết lại càng ảo diệu hơn, tác giả trở lại với hình ảnh con vịt, và cá lìm kìm nhập đề, để kết một cách độc đáo:

Con vịt có chết đâu mà tôi buồn tôi hát?

Để cá lìm kìm cắn mãi trái tim tôi!

Hàn Sĩ Nguyên

Úc phát hành tiền có cờ VNCH

0

KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY QUÂN ĐỘI HOÀNG GIA ÚC CHẤM DỨT THAM CHIẾN TẠI VIỆT NAM: PHÁT HÀNH TIỀN CẮC $2 IN CỜ VIỆT NAM CỘNG HOÀ

VIỆT CỘNG sau đó NỖI ĐIÊN… PHẢN ĐỐI !!!

Đồng coin $2 mới nhằm kỷ niệm cuộc chiến tranh Việt Nam hiện đang có giá trị tăng vọt, với giá bán trên mạng đã lên đến $1,200, tăng 600 lần !


Sở đúc tiền Úc Đại Lợi (Royal Australian Mint – gọi tắt là RAM) chỉ vừa phát hành hai loại coin $2, với mục đích đánh dấu 50 năm kể từ khi quân đội Úc rời khỏi chiến trường Nam Việt Nam, kết thúc nhiệm vụ của phe đồng minh trong cuộc chiến bảo vệ tự do.

Loại coin đầu tiên là đồng vàng Mintmark, mang mệnh giá $2 nhưng giá bán lẻ là $15 và có 80,000 đồng tiền được đúc.

Loại thứ nhì là đồng bạc Mintmark, giá bán lẻ $80 do chỉ có 5,000 đồng tiền được đúc.

Cả hai một mặt có hình chiếc trực thăng chiến đấu UH-1, bao bọc chung quanh là 3 huân chương tưởng thưởng cho các cựu quân nhân tham chiến ở Việt Nam, trong đó có cờ Việt Nam Cộng hòa. Viền ngoài có hàng chữ „Vietnam War“ và „2 dollars“. Mặt kia là hình Nữ hoàng, với hàng chữ „Elizabeth II 1952 – 2022“ và „Australia 2023“.

Ngay khi vừa phát hành, các đồng coin này có sức mua rất cao. Chuyên viên về tiền cắc và giấy bạc là ông Joel Kandiah cho hay đặc biệt là đồng bạc $2 được mọi người giành mua, vừa ra đã hết sạch và trên mạng có giá rao bán đến $1,200:

„Nguyên nhân trước hết đồng này là đồng tiền bạc đầu tiên được đúc với màu này, trên lại có hình Nữ hoàng. Thứ nhì đây cũng là năm kỷ niệm cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn về lý do tại sao lại có giá là vì số lượng đúc ra có giới hạn thấp. Còn nhớ mẫu $2 có hình sao Hỏa trong bộ sưu tập các hành tinh phát hành năm 2018, với giá trị hiện tại trên thị trường vào khoảng $4,000“.

Các đồng tiền bạc đã được bán sạch veo ngay vào buổi chiều ngày phát hành, trong khi các đồng tiền vàng cũng được mua hết vào buổi tối. Giá bán lại đồng tiền vàng mới đầu tăng liền lên thành $100 nhưng sau đó giảm xuống còn khoảng $60. Thế nhưng đồng tiền bạc vẫn tiếp tục tăng giá và dự đoán sẽ còn lên cao hơn nữa.

Sở Đúc tiền cho biết các đồng tiền trên nhằm vinh danh 60,000 binh sĩ Úc đã chiến đấu trên chiến trường Việt Nam, trong đó hơn 500 binh sĩ không có ngày trở về:

„Đây là cuộc tham chiến lớn nhất của nước Úc trong hậu bán thế kỷ 20 và cũng là một trong những giai đoạn gây chia rẽ nhất tại quốc gia này. Đồng tiền này tưởng niệm những mất mát sinh mạng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, những chấn thương của người tham chiến cùng các hệ lụy để lại ở Úc trong suốt một thập niên đầy biến động“.

Việt Nam phản đối VẬT PHẨM ??? có hình “cờ vàng” phát hành tại Australia. Bà Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: „Chúng tôi lấy làm tiếc và kiên quyết phản đối việc Công ty Royal Australia Mint và Bưu chính Australia đã phát hành các vật phẩm với hình ảnh “cờ vàng”, cờ của một chế độ đã không còn tồn tại“.

„Việc này hoàn toàn không phù hợp với xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Australia. Chúng tôi đã trao đổi với phía Australia về việc này, đề nghị có hình thức dừng lưu hành các vật phẩm này, đồng thời không để xảy ra những sự việc tương tự trong tương lai“.

Việt Nam – Australia xác lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973. Hai nước thiết lập quan hệ đối tác toàn diện từ năm 2009 và là đối tác chiến lược từ năm 2018. Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Australia năm 2022 đạt 16,1 tỷ USD, tăng 30,3% so với năm 2021.

Tính đến tháng 12/2022, Australia có 562 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đạt 1,97 tỷ USD, đứng thứ 20/139 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Australia đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 7 của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 10 của Australia.

Blogger Minh Châu Da chia sẻ: „Úc phát hành đồng xu $2 AUD kỷ niệm 50 năm Vietnam War nhưng có giá lên tới $1360 AUD bởi chi tiết độc đáo này“.

Đồng tiền hai đô la mới của Úc kỷ niệm cuộc chiến Việt Nam hiện có giá hơn 1360 đô la chỉ sau khoảng hơn một tuần phát hành.

Australia Mint (công ty độc quyền sản xuất tiền cho Australia) phát hành đồng bạc hai đô la lần đầu tiên hôm 6/4/2023 với thiết kế màu sắc kỷ niệm 50 năm kết thúc sự tham gia của Úc vào cuộc chiến Việt Nam năm 1973.

Báo Daily Mail của Anh dẫn lời một người sưu tập tiền có tên Jeol Kandiah ở Perth, cho biết người này phải chờ đến 16 giờ đồng hồ để mua được một đồng trong khi nhiều người khác phải xếp hàng dài để mua.

Mint cho biết chỉ phát hành giới hạn 5.000 đồng bạc với giá 80 đô la trong khi bản vàng có 80.000 đồng và được bán với giá là 15 đô la.

Cả hai đồng tiền đều có hình máy bay trực thăng UH-1 bao quanh bởi đường tròn màu sắc giống như ba miếng ribbon trao cho các cựu binh Việt Nam. Trong hình ảnh của đồng tiền này có hình cờ của Việt Nam Cộng Hòa.

Đồng xu đầu tiên, Vietnam War Circulated, có màu vàng truyền thống, đã được đúc 80.000 lần.

Nhưng đồng xu thứ hai, Vietnam War Silver Proof, phiên bản bằng bạc của cùng một đồng xu, chỉ được đúc 5000 lần.

Royal Australian Mint, xưởng đúc tiền Hoàng gia Úc, đã viết những dòng sau, khi phát hành hai đồng xu mới này:

„Khoảng 60.000 người Úc đã phục vụ tại Việt Nam. Hơn 500 người thiệt mạng, nhiều người khác bị thương. Đó là cam kết quân sự lớn nhất của Úc trong nửa sau của thế kỷ XX, và là một trong những giai đoạn gây chia rẽ nhất của đất nước. Đồng xu kỷ niệm này tưởng nhớ đến chiến tranh Việt Nam vì những mất mát và thiệt hại mà cuộc chiến gây ra cho những người phục vụ, cũng như tác động của nó đối với nước Úc trong suốt một thập niên đầy biến động.“

Hiện giá của một đồng bạc được bán trên eBay là từ 1.200 đến 2.300 đô la và giá đồng vàng là khoảng 80 đô la.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của đồng 2 đô lá Úc phát hành kỷ niệm 50 năm Úc tham gia Chiến tranh Việt Nam. Sau đây là một số lý do có thể giải thích tại sao giá trị của đồng tiền này cao đến vậy:

1. Số lượng giới hạn: Đồng tiền này chỉ được phát hành với số lượng giới hạn, vì vậy nó rất độc đáo và có giá trị cao đối với các nhà sưu tập tiền xu.

2. Kỷ niệm quan trọng: Đồng tiền này được phát hành để kỷ niệm 50 năm Úc tham gia chiến tranh Việt Nam, một sự kiện lịch sử quan trọng của quốc gia. Việc đưa ra đồng tiền này nhằm tôn vinh và tưởng nhớ những người lính Úc đã hy sinh trong cuộc chiến này.

3. Chất lượng cao: Đồng tiền được làm bằng chất liệu vàng 99,99% nguyên chất, với thiết kế đẹp mắt và chi tiết tỉ mỉ. Điều này làm tăng giá trị của đồng tiền và thu hút sự quan tâm của những người sưu tập tiền xu.

4. Sự kết hợp giữa kỷ niệm lịch sử và nghệ thuật: Thiết kế đồng tiền được thể hiện qua hình ảnh của một chiến binh Úc đang bước đi trên nền lá cờ Úc và lá cờ Việt Nam. Nó cũng bao gồm chữ ký của Thượng tướng nguyên thủ tướng Úc Bob Hawke và còn có thêm hình ảnh một chiếc xe tăng Centurion đang di chuyển. Sự kết hợp giữa nghệ thuật và kỷ niệm lịch sử làm tăng giá trị của đồng tiền này.

Tóm lại, giá trị cao của đồng 2 đô la Úc phát hành kỷ niệm 50 năm Úc tham gia Chiến tranh Việt Nam được giải thích bởi sự kết hợp giữa yếu tố lịch sử, giới hạn số lượng, chất lượng cao và thiết kế nghệ thuật.“

Thăm mộ Alexandre de Rohdes tại Ba Tư – Tri ân người khai sáng chữ Quốc ngữ Việt Nam

0

Chữ Quốc Ngữ đã như lưỡi dao cắt đứt SỰ LỆ THUỘC truyền kiếp người Trung Quốc với người Việt Nam!

Xin cám ơn người, một vị đại ân nhân của những người con nước Việt. Xin tri ân người với lòng kính yêu sâu sắc: Alexandre de Rhodes.

grafik.png

“Từ thuở còn sinh viên, khi được học về nguồn gốc chữ Quốc ngữ mà chúng ta có được để sử dụng một cách dễ dàng và tiện lợi như ngày nay. Tôi đã thầm cảm ơn những nhà truyền giáo phương Tây, đặc biệt là Alexandre de Rhodes, người đã có đóng góp lớn lao trong việc hoàn thiện hệ thống bảng chữ cái cho người Việt Nam của chúng ta.

Và may mắn thay, trong chuyến đi Ba Tư (Iran) lần này. Một cơ duyên vô cùng quý báu đã giúp tôi có cơ hội đến viếng thăm ngôi mộ, nơi yên nghỉ của ông trong một nghĩa trang nằm ở ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran.

SỰ CHỈ GIÚP CỦA NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT BỤNG

Từ lời gợi ý của một chị bạn, chúng tôi biết được thông tin về ngôi mộ của Alexandre de Rhodes được an táng trong một nghĩa trang công giáo của người Armenia tại Esfahan. Nhưng do thời gian lưu lại nơi đây khá ngắn, vì thế hy vọng được đến viếng thăm ngôi mộ của ông là khá mong manh cho chúng tôi.

Khi nghe chúng tôi nói về ước nguyện của mình, cô Malih – một Hướng dẫn viên người Iran vô cùng thông cảm và hết sức tận tình giúp đỡ. Mặc dù với thâm niên hơn 10 năm làm nghề hướng dẫn viên, đã đưa biết bao nhiêu đoàn khách từ khắp năm châu đến thăm Esfahan, nhưng là người Hồi giáo cho nên cô chưa hề biết đến thông tin về khu nghĩa trang người công giáo Armenia nằm ở đâu. Và cô cũng không hề biết đến thông tin nào về Alexandre de Rhodes.

Sau quá trình tìm kiếm, thông qua một người bạn gốc Armenia, cô Malih hỏi thăm được địa chỉ của nghĩa trang. Nhưng vấn đề là không phải ai cũng được vào thăm nghĩa trang. Mà cần phải có sự đồng ý của người quản lý ở nghĩa trang.

Một lần nữa, chúng tôi may mắn gặp được một vị quản lý ở nhà thờ Vank, ông đã nhiệt tình viết cho chúng tôi một tờ giấy phép để xuất trình cho người quản lý ở nghĩa trang.

Cầm tờ giấy trên tay, chúng tôi vội vàng đi về phía ngoại ô thành phố Esfahan. Nơi có nghĩa trang của cộng đồng người Armenia sống tại đây.

NƠI NGƯỜI NẰM XUỐNG

Trước mặt chúng tôi là một nghĩa trang rộng lớn. Những dãy mộ xếp hàng dài nối bên nhau mênh mông. Chúng tôi biết là sẽ không dễ dàng để tìm ra vị trí lăng mộ của ngài. Chúng tôi tìm gặp một cụ già quản mộ ở đây dò hỏi. Cụ nhanh chóng lên xe đưa chúng tôi đến ngôi mộ có tên Alexandre de Rhodes…

Hôm chúng tôi đến, là ngày đầu năm mới của tết cổ truyền Nowruz của người Ba Tư (Iran), một vài ngôi mộ gần đấy được đặt những chậu hoa. Còn ngôi mộ của ông không có một cành hoa nào, đó chỉ là một nấm mồ nhỏ làm bằng một tảng đá hình chữ nhật nằm khép mình khiêm tốn bên những ngôi mộ khác.

Một niềm xúc cảm thân thương nghẹn ngào mà tôi không thể tả thành lời đang tuông chảy trong tôi. Đây là nơi an nghỉ của người đã có đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam. Dưới lớp đất ấy là thi hài của một người phương Tây xa lạ.

Ông đã mất từ gần 4 thế kỉ trước nhưng ông là người đã giúp cho dân tộc Việt Nam có được một bảng chữ cái với các thanh sắc uyển chuyển nhẹ nhàng, nhằm để ghi lại và diễn đạt tiếng mẹ đẻ của người Việt Nam.

MỘ NGÀI ALEXANDRE DE RHODES

Đặt một chậu hoa tím mua được trong một hiệu bán hoa tết của người Iran lên mộ ông. Chúng tôi không ai nói lời nào. Nhưng giữa chúng tôi có một sự đồng cảm sâu sắc. Chấp tay lên ngực, tôi khẽ cúi đầu xin gửi đến người một lời tri ân sâu sắc.

Nhìn thái độ thành khẩn và tôn kính của chúng tôi dành cho người nằm dưới nấm mộ. Người quản trang hỏi cô Malih: „ông ấy là ai mà chúng tôi có vẻ tôn kính thế?“.

Và ông đã vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng đây là người đã có công hoàn thiện bảng chữ cái cũng như xuất bản những quyển tự điển Việt – Bồ La Tinh đầu tiên cho người Việt Nam từ những năm 1651.

Qua cuộc chuyện trò, tôi đuợc biết người quản trang có tên gọi là Rostam Gharibian, ông đã làm việc ở đây được 17 năm.

Tôi hỏi, trong 17 năm đó có bao giờ ông thấy ai là con cháu hay người thân của ngài Alexandre de Rhodes đến viếng mộ ông ấy hay không.

Thoáng chút đăm chiêu, ông trả lời rằng: vì là một thầy tu cho nên khi mất đi cũng như bao người khác Alexandre de Rhodes cũng không có vợ con. Và họ hàng thì cũng ở xa tít tận châu âu cho nên chắc cũng không ai còn nhớ.

Vì thế trong 17 năm nay ông cũng chưa hề nghe thấy một người họ hàng hay con cháu nào của ông đến thăm. Chỉ thỉnh thoảng đôi khi ông thấy có một vài người Việt Nam đến viếng mà khi đó thì ông cũng không biết họ là ai và có quan hệ như thế nào với người đã mất…

Theo truyền thống của những người Iran, tôi lấy một ít nước rửa lên nấm mồ của ông. Những giọt nước mát trong chảy lên bia mộ ông tựa như lời thì thầm của chúng tôi xin gửi đến người. Cả một đời ông cống hiến vì đạo. Và trong quá trình truyền giáo, với mục đích mong muốn truyền tải những thông điệp trong kinh thánh một cách dễ dàng hơn.

Ông đã không quản khó nhọc để tìm cách sáng tạo ra bảng chữ cái tiếng Việt. Và đến khi cuối đời, Ngài đã lặng lẽ nằm lại nơi xứ người. Có lẽ giờ đây ông không còn một người bà con họ hàng nào nhớ đến ông để thỉnh thoảng ghé thăm, chăm nom nấm mồ của ông nữa, nhưng có lẽ ông cũng ấm lòng khi biết rằng vẫn còn đó những người con nước Việt.

Vẫn còn đó hơn 90 triệu người con nước Việt trên khắp 5 châu sẽ mãi mãi không bao giờ quên ơn ông. Người đã có công vĩ đại trong việc chấm dứt 1000 năm tăm tối, 1000 năm khốn khó khi những người Việt phải đi mượn chữ Tàu ghi lại tiếng Việt.

Những người con đất Việt kính cẩn nghiêng mình trước mộ ALEXANDRE DE RHODES

Và giờ đây, hạnh phúc thay. Chúng ta đã có được bảng chữ cái của riêng mình. Một bảng chữ cái dựa trên các ký tự La Tinh nhưng vô cùng uyển chuyển và dễ học.

Xin cám ơn người, một vị đại ân nhân của những người con nước Việt. Xin tri ân người với lòng kính yêu sâu sắc: Alexandre de Rhodes !”

Phạm Minh Trí

Mặt khuất của tấm huân chương Chopin của „Nghệ sĩ nhân dân“ Đặng Thái Sơn

0

Tác giả: Sơn Nguyễn,

Hiệu đính: Tèo Ngu Khìn

Đang nghe nhạc hòa tấu của nghệ sĩ tài ba người Hà Lan, André Rieu, thì tự nhiên liên tưởng tới Đặng Thái Sơn, một nghệ dĩ dương cầm „gốc Việt“ có tiếng, nhớ lại hơn bốn mươi năm trước ngày báo chí đất nước này thi nhau ỏm tỏi ngợi ca chuyện Sơn đoạt được cái giải âm hưởng nhạc cổ điển ở Ba Lan, rồi về “vinh quy bái tổ” ở Nhà hát lớn Hà Nội, ngày mà “các cụ” nhà nước to tướng đi xem đều… ngáy o o khi nghe nhạc.

Giống như nhà toán học Ngô Bảo Châu, người Việt thành danh thường được chăm bón, vun trồng, phát triển tài năng tận đẩu tận đâu bên ngoại quốc rồi khi có thành quả lại về “báo công lên Bác“ cho nhà nước tự sướng, thở ra không khí đầy những lời hào sảng; đưa tất cả lên đỉnh vinh quang, tưởng chừng như thế gian chỉ còn có người Việt; người Việt sẽ làm cho thế giới thăng hoa rực rỡ.

Nhưng sau những buổi lễ ầm ĩ, tiệc tùng hoành tráng, báo đài bơm thổi lên tận mây xanh, nền âm nhạc, toán học, khoa học ở Việt Nam thì vũ như cẩn; vẫn những nốt lặng trầm dai dẳng, vẫn những dấu trừ đều tăm tắp lan về chân trời.

Đây, mời các bạn xem một ví dụ điển hình về quá trình „trồng người“, „ươm mầm tài năng“, rồi „gặt hái“ của Việt Nam kiểu trên.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1956 tại Bắc Việt. Nhiều văn nhân, nghệ sĩ khi ấy đã nhiệt thành tham gia một phong trào văn học có tên là “Trăm hoa đua nở”, vốn là chữ dịch từ “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng”, thời kỳ học đòi “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của Mao Xú Uế bên Tàu. Rất đông văn nghệ sĩ đã tham gia phong trào này. Nổi tiếng nhất có các ông Phan Khôi – Chủ nhiệm tạp chí Nhân Văn, Trần Duy – Thư ký tòa soạn, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Văn Cao, Nguyễn Tuân, bà Thụy An. Có nhiều nhà trí thức, không phải văn nghệ sĩ, như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu cũng tham gia phong trào này. Mọi người biết đến nó dưới cái tên nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”.

Trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có một nhà thơ tên là Đặng Đình Hưng. Ông chính thức làm thơ từ cuối những năm 1950 cho đến khi qua đời. Hoạt động nghệ thuật của Đặng Đình Hưng về chữ nghĩa gồm 6 tập thơ, với những vần thơ khó hiểu, rất khác người. Ông còn đuợc biết đến như một kiến trúc sư, nhạc sĩ, họa sĩ.

Năm 1957, Đặng Đình Hưng lấy bà Thái thị Liên, một nhạc sĩ dương cầm (piano) nổi tiếng đương thời. Bà Thái thị Liên trước đó đã có hai đời chồng – khi bà ở hải ngoại (Pháp, Tiệp Khắc) và có ba người con. Năm 1958, vợ chồng họ Đặng và họ Thái sinh được một cậu con trai, đặt tên là Đặng Thái Sơn.

Niềm vui gia đình, con cái chẳng được bao lâu thì họa ập đến.

Với một ông chồng là một nhân vật trong vụ án „Nhân Văn Giai Phẩm“, bị coi là một tay phản động chống Đảng, bà Thái Thị Liên bị sức ép, phải ly dị với Đặng Đình Hưng. Và rồi bà Liên cùng với 3 người con riêng-chung, trong đó có cậu Đặng Thái Sơn phải ra ở riêng; bà đi dạy nhạc kiếm sống, chấp nhận, chịu đựng một cuộc đời cực nhọc vất vả.

Cũng từ đó, kể cả nhiều năm tháng đi sơ tán ở các vùng quê xa Hà Nội, Đặng Thái Sơn học âm nhạc, học chơi dương cầm với mẹ. Cuộc đời khốn khó, nhưng bà Liên là một nhà sư phạm nghiêm khắc, khó tính và ít khi đưa ra lời khen, thậm chí Đặng Thái Sơn còn bị “đối xử” khắt khe nữa.

Năm 1974, một chuyện bất ngờ đã xẩy ra làm cho cuộc đời của Đặng Thái Sơn bước sang một khúc ngoặt: một vị giáo sư âm nhạc người Nga, gốc Do Thái tên là Isaac Katz, sang dạy cho Trường Âm nhạc Hà Nội, đã tình cờ phát hiện ra Đặng Thái Sơn.

Một buổi chiều nọ, ông Katz đang tản bộ trên con đường gần nhà bà Thái Thị Liên thì nghe thấy tiếng đàn dương cầm rất hay, rất đáng chú ý. Lần hồi ông Katz đã tìm được đến nhà bà Thái Thị Liên và gặp cậu con trai Đặng Thái Sơn, một học sinh Trường Âm nhạc Hà Nội, năm nào cũng đứng đầu lớp.

Sau vài lần chứng nghiệm khả năng của người học sinh này, giáo sư Isaac Katz chính thức yêu cầu Trường Âm nhạc Hà Nội cho ông được đích thân truyền dạy cho người học sinh xuất sắc đó, dù trên nguyên tắc ông Issac Katz chỉ dạy những học sinh viên cuối trước khi thi tốt nghiệp, và Đặng Thái Sơn, phải một năm sau mới hội đủ điều kiện này.

Năm 1975 giáo sư Isaac Katz về nước. Trước khi về ông đã đề nghị cho Đặng Thái Sơn được theo học dương cầm tại Liên Xô. Lời đề nghị này không được phía Việt Nam chấp thuận vì chính quyền thấy Sơn là con của một người dính vào „Nhân văn Giai phẩm“, bị coi là một loại phản động nguy hiểm cho nhà nước.

Lời đề nghị không có phản hồi; giáo sư Isaac Katz đã phải yêu cầu lần thứ hai, kèm theo lời đề nghị này là thái độ khó khăn của ông với những du học sinh con ông cháu cha, thiếu khả năng thật sự. Ông phải tạo một sức ép đủ mạnh để Hà Nội nhượng bộ, để người học trò ông chọn phải được dạy dỗ đến nơi đến chốn.

Thế là năm 1976, Đặng Thái Sơn được phép đi học âm nhạc tại Liên Xô. Anh tạo thành tích ngay lập tức là thi đậu vào Học viện Âm nhạc Tchaikovsky. Trước anh chưa có một người nào vào được học viện này mà không qua một năm dự bị. Năm đó anh mới 18 tuổi.

Khi vào học tại Học viện Âm nhạc Tchaikovsky, Đặng Thái Sơn gặp một vị danh sư khác. Đó là giáo sư Natanson. Nếu như Isaac Katz là người khám phá ra tiếng đàn Đặng Thái Sơn, tìm mọi cách mang anh về Liên Xô để có thể tìm đúng thầy, thì Natanson chính là ông thầy này, một thầy dạy tận tâm và rất giỏi.

Sơn được cấp học bổng 60 rúp một tháng. Số tiền này chẳng nhiều nhặn gì, nếu tính theo tỷ giá hối đoái thời đó thì chỉ tương đương với khoảng 20 USD. Sơn có hai người bạn thân trong thời gian này, cả ba góp gạo thổi cơm chung, dè sẻn từng đồng mới có thể tạm đủ ăn và thỉnh thoảng vẫn phải đi làm thêm để kiếm tiền chi dụng hàng ngày.

Năm 1980, Sơn tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Tchaikovsky hạng tối ưu. Tòa Đại sứ Việt Nam tại Moscow chắc được chỉ thị của Hà Nội nên đã coi như không biết, không để tâm đến thành tích của người đồng hương này mà còn có ý muốn gây khó khăn cho Sơn chỉ vì anh có lý lịch xấu – bố anh thuộc “thành phần phản động Nhân Văn Giai Phẩm”!

Tốt nghiệp xong phải làm gì? Giáo sư Natanson thúc đẩy anh nộp đơn và hoàn tất thủ tục xin dự thi cuộc thi nhân kỷ niệm Chopin hàng năm tại Ba Lan. Đặng Thái Sơn bèn làm đơn xin với tòa Đại sứ Việt Nam được giới thiệu là một ứng viên Việt Nam đi thi Chopin và xin cấp ít tiền lộ phí vì đường từ Moskva đến Warszawa, thủ đô Ba Lan quá xa, mà anh làm gì có tiền. Đơn của Sơn bị bác.

Khi ấy Liên Xô cũng chuẩn bị cử một số nhạc sĩ đi Warszawa. Họ tổ chức một kỳ thi tuyển lựa cả trăm người để tìm ra mươi người đại diện cho Liên Xô. Những người này sẽ được chính phủ Liên Xô giúp đỡ. Đặng Thái Sơn cũng thi “ké” vào đó. Anh được chấm điểm cao nhất, nhưng anh không thể ở trong danh sách đại diện Liên Xô để đi thi được. Anh phải dự thi với tư cách thí sing tự do, vô tổ quốc và không được chính quyền Liên Xô giúp đỡ.

Không những thế ban tổ chức kỳ thi ở Ba Lan lúc đầu đã định bác đơn xin dự thi của Đặng Thái Sơn, vì đơn dự thi của anh không một lời giới thiệu, chẳng biết anh là ai; nhưng rồi họ cũng thông qua, vì Sơn là người Việt Nam đầu tiên xin dự thi từ trước đến giờ. Vả lại anh có sau lưng cả một Học viện Âm nhạc Tchaikovsky làm chứng cho khả năng của mình, một khả năng hạng tối ưu khi ra trường.

Giáo sư Natanson thấy vậy lại phải ra tay giúp đỡ vì ông biết người trò cưng đầy tiềm năng của ông rất có hy vọng thắng giải. Ông phải bỏ tiền ra cho Đặng Thái Sơn mua vé xe lửa đi Warszawa, thuê nhà trọ, thuê cả dàn nhạc đệm cho anh đánh đàn – một số tiền không nhỏ. Không có tiền mua vé máy bay, và chỉ đủ tiền mua vé xe lửa hạng nhì, Sơn không có một người thân nào ra tiễn tại sân ga Moscow, cũng chẳng có một người bạn nào đến đón khi tới Warszawa. Hành lý của anh thật nhẹ, vài bộ quần áo tạm lành lặn. Anh không có cả một bộ đuôi tôm nghi thức để lúc hữu sự dùng đến!

Buồn quá, Sơn đã phải dốc bầu tâm sự với ông bố Đặng Đình Hưng. Trong thư gửi cho cha mình, Đặng Thái Sơn viết:

“Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vác-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-tan-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có – Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp được Chopin – Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…”.

Và hình như thế, Sơn đã được Chopin chọn, anh qua được vòng loại một cách dễ dàng, loại hầu hết 149 đối thủ thuộc 37 quốc gia trên toàn thế giới, rồi tiến lên vào vòng chung kết. Để thi vòng chung kết Sơn bị kẹt một điều là thí sinh phải mặc áo đuôi tôm. Anh có hai ngày chuẩn bị cho buổi chung kết; nhưng làm sao có áo đuôi tôm bây giờ? Người gỡ rối cho anh lại là giáo sư Natanson.

Ông thầy phải lôi anh đến một cửa tiệm, sắm cho anh một bộ, nhưng tìm cả nửa ngày không có một chiếc nào vừa với thân thể nhỏ thó của anh. Thế là đành phải may gấp một chiếc, lấy trong vòng 24 giờ. Anh bước vào phòng thi với cái áo mới tinh còn chưa được nhặt sạch chỉ thừa!

Kết quả: anh đã thắng giải đầu là giải quan trọng nhất; anh còn đoạt thêm 11 giải phụ nữa, trong đó có một giải của hãng truyền hình NHK Nhật Bản. Chính hãng NHK sau này đã mở cho anh một con đường thoát hẳn ra khỏi nước Việt !

Tin Đặng Thái Sơn đoạt giải Chopin ở Ba Lan như một làn sóng chấn động giới âm nhạc cổ điển thế giới.

Khi tin này về tới Việt Nam, báo Nhân Dân của nhà nước Việt Nam – những người đã từng không muốn anh ra khỏi nước, không muốn anh học dương cầm tại Liên Xô, lại còn tìm cách cản trở anh đi Warszawa tham dự kỳ thi Chopin – đã đăng tin này lên trang nhất trong 3 ngày liền! Lời sẽ ca tụng thì quá lố đến nỗi cả tháng sau, khi về nước thăm ông cụ thân sinh Đặng Đình Hưng, anh ngượng ngùng khi đọc được những dòng chữ này.

Về cuộc sống sau “Nhân văn Giai phẩm” của nhà thơ Đặng Đình Hưng, ông bị ung thư phổi. Khi Đặng Thái Sơn tham dự cuộc thi âm nhạc năm 1980 tại Ba Lan, Đặng Đình Hưng đang phải sống trong cảnh ở nhờ gầm cầu thang nhà ông bạn, không nhà không cửa, không vợ con thân thích, chỉ nằm chờ chết.

Đặng Thái Sơn về nước kịp thời. Cha anh bị bệnh đã khá lâu và không được điều trị một cách đúng mức. Cha anh cần phải mổ ngay, một cái bướu trong phổi. Anh về nhà hôm trước, vài ngày sau cha anh nhập viện, một bệnh viện vốn chỉ dành cho các cán bộ cấp cao cỡ thứ trưởng trở lên. Cha anh được bác sĩ Tôn Thất Tùng, người bác sĩ số một của y khoa Hà Nội lúc đó khám bệnh và được giải phẫu bởi một bác sĩ lừng danh về phẫu thuật. Nhờ vậy mà anh cứu bố sống thêm được mười năm nữa.

Năm tháng qua đi. “Sau Chopin”, cuộc đời Đặng Thái Sơn chỉ ở Nhật và lưu diễn khắp thế giới rồi sau cùng định cư hẳn ở Canada. Nhưng, anh vẫn được nhà nước CHXHCN Việt Nam “lôi” về gắn lên ve áo cái danh hiệu Nghệ sĩ Nhân Dân khối kẻ trong làng showbiz Việt ao ước – cho dù phần lớn nhân dân Việt Nam hôm nay chẳng biết Sơn là ai, và cũng chẳng bao giờ nghe chứ đừng nói là hiểu nổi thứ âm nhạc „bác học“ mà anh đánh.

Nhưng có hề gì vì chính người nhạc sĩ tài năng của chúng ta nào có để tâm đến cái danh hiệu NSND nhiều điều tiếng mà lắm người phải làm đơn chạy chọt, lạy lục xin xỏ. Bằng chứng là, ngay sau đó ông đã cùng với người mẹ, bà Thái Thị Liên, „bỏ nước mà đi“, đi hẳn, chọn định cư tại Montreal, nhập quốc tịch Canada, sống phần đời còn lại lặng lẽ, như muốn quên đi quá khứ kinh hoàng „Nhân Văn Giai Phẩm“.