1/ Chuyện cái khăn lạnh

Hình ảnh các học sinh Hàn Quốc cởi trần rèn luyện dưới trời tuyết âm mấy độ, chứ không ngồi uống chè, nhét 2 tay vào đùi kêu rét quá rét quá như ở ta.

Lúc Vietnam Airlines (VNA) mở đường bay thẳng đi London, cũng trùng hợp đợt đó mình sang Anh họp. Đi cùng là hai anh bạn người Nhật. Mình ép hai anh bạn đi VNA, nên phải ghé TP HCM transit, chứ nếu không thì hai bạn ấy bay từ Tokyo bay thẳng London, nhưng mình ép quá nên đành chiều lòng. Vì tiền vé mạnh ai nấy trả nên mình đi hạng ghế phổ thông, hai anh bạn Nhật đi hạng doanh nhân, giá mắc gấp 3 lần nên mình muốn tiết kiệm. Mình có gì nói đó, thiệt thà chứ không có sĩ diện, nên hai bạn Nhật hết sức yêu mến. Nhiều người khuyên nói mày làm việc với Tây không hà, nên phải diện cho nó xứng đáng. Chứ toàn cái Vina Giày, quần áo tự may hay của Dệt May An Phước, hay nước hoa cũng mùi lúa mới của mỹ phẩm Sài Gòn, quê mùa, toàn đồ Việt Nam không có xứng, phải dùng hàng hiệu. Bỏ thêm ít tiền ngồi trên khoang doanh nhân luôn, chứ ngồi chi dưới khoang kia, nó coi thường thì sao. Tony thì không quan tâm mấy, miễn là thấy đẹp, thấy hợp gu là dùng, nhưng thật ra vẫn có sự ưu tiên hàng Việt, vì tinh thần dân tộc. Một công dân tự trọng với sản phẩm quốc gia họ sản xuất thì dân tộc đó mới tự cường. Mình nên chinh phục bạn bè quốc tế bằng vẻ đẹp của trí tuệ, vẻ đẹp của sự chân thành, còn ngoại hình thì tử tế, sạch sẽ, tươm tất là được. Trong điều kiện hiện nay của mình, sang trọng quá thành ra không hay, mình thấy có lỗi với đồng bào của mình đang vất vả kiếm cái đưa vào bao tử cho no bụng, cho hết một đời người, ngoài kia.

Tony cũng hay đi Hàn Quốc, Nhật và thực sự thích cách làm, cách phát triển của họ. Người Đức cũng vậy, họ rất ủng hộ sản phẩm của nước họ với một tinh thần dân tộc mạnh mẽ, đôi lúc cực đoan, nhưng phù hợp cho một giai đoạn phát triển nào đó. Papa Kim, tức cha nuôi người Hàn Quốc của mình kể, lúc ông ấy đi học, tức thập niên 60-70, Hàn Quốc nghèo, nghèo hơn cả miền Nam Việt nam. Tổng thống Park Chung Hee lúc đó mới suy nghĩ cách nào để phát triển kinh tế, nên mới gửi quân đi đánh thuê, kiếm tiền về làm đường sá. Phải bán máu lúc cần thiết. Người Hàn Quốc trở thành số một thế giới về thời gian xây dựng đường cao tốc, nhanh nhưng có chất lượng vì họ nghiêm khắc với bản thân mình. Ở Sài Gòn, có xa lộ Đại Hàn là của họ làm, với chất lượng tương đương với một đường băng Tân Sơn Nhất, máy bay có thể sử dụng để đáp xuống. Có con đường là có tất cả.

Tinh thần dân tộc họ mạnh mẽ đến mức, cứ vào lớp học, cô giáo sẽ kiểm tra cặp học sinh, những dụng cụ học tập nếu không phải của Hàn Quốc sản xuất sẽ bị phê bình, gửi thư về phụ huynh góp ý. Một thế hệ lớn lên trong sự quyết tâm cao độ, rằng sẽ thoát nghèo, sẽ cho thế giới biết trí tuệ dân tộc, sẽ trở nên văn minh… nên cái gì họ cũng xài của nội địa. Lòng dân thì quyết tâm nên các doanh nghiệp cũng quyết tâm không kém. Họ lùng sục đi mua các thiết bị, các sản phẩm của Nhật hay Âu Mỹ về, lục tung hết, nghiên cứu ngày đêm không ăn không ngủ để sản xuất y chang cho bằng được, thậm chí tốt hơn, rẻ hơn. Các du học sinh khi học xong, đồng lòng kéo nhau về đất nước dù Hàn Quốc đến bây giờ vẫn trong tình trạng chiến tranh với chế độ đi lính bắt buộc. Tất cả đều bảo nhau, hãy làm thêm, làm thêm. Những người con dân tộc mình đang bán máu, bán sinh mạng để gửi từng đồng đô la về xây dựng đất nước, hà cớ gì mình không thêm vài giọt mồ hôi? Những công trường rầm rập, những cao ốc văn phòng đèn sáng đến nửa đêm, những học sinh ở trần, lăn lê bò trườn dưới tuyết với một lời thề sẽ đưa đất nước tiến lên. Thư viện sáng đèn 24/24. Không nghỉ ngơi, giải trí gì hết, vì không được phép khi đất nước còn nghèo. Trên tivi là sự chia sẻ cách làm giàu, dạy ngoại ngữ, dạy đạo đức, dạy kiến thức… Cả xã hội lao vào học tập và làm việc như điên. Chỉ trong mười mấy năm, một kỳ tích sông Hàn ra đời, một Hàn Quốc kiêu hãnh với ô tô, xe máy, điện tử, hóa chất, đóng tàu, phim ảnh, thời trang… không thua một quốc gia tiên tiến nào. Thế vận hội năm 1988, Seoul đã trình cho thế giới thấy, với sự quyết tâm, không có gì là không thể. Cứ như một ngôn ngữ bất thành văn, một quốc gia phát triển kinh tế sẽ ra thế giới đệ trình bằng một cái Olympic. 20 năm sau, đến lượt người Trung Quốc với Olympic Bắc Kinh.

Từ nước chót bảng, Hàn Quốc thành nền kinh tế thứ 12 trên thế giới, dân Hàn Quốc được cả thế giới tôn trọng, hầu hết đều miễn visa cho họ, muốn đi đâu thì đi. Rảnh, nhức đầu thì đi Mỹ. Muốn ăn Pizza thì lên máy bay đi Ý…

Giờ đây những hình ảnh Hàn Quốc, gọi là làn sóng Hanlyu (한류), lan tràn khắp châu Á. Các ụ pa với vẻ đẹp đài các, kiêu sa và hay khóc, đã quảng cáo hiệu quả ngành mỹ phẩm và thời trang của nước này. Nhớ lần Jang Dong Gun qua Việt Nam, một nhãn hàng băng vệ sinh phụ nữ tài trợ với yêu cầu phải mua mấy chục gói mới đổi một tấm vé, tạo thành sự hỗn loạn tranh giành, một ngày bán hết veo. Giá vé chợ đen lên gấp mấy lần. Tony thấy cả có những nhà trọ, toàn con trai, nhịn tiền ăn cơm để mua băng vệ sinh. Chen lấn coi xong, về kể 3 ngày 3 đêm chuyện một tài tử đẹp trai cũng chưa hết. Còn đống băng vệ sinh thì không biết làm gì. Nhân dịp qua chơi nên tụi nó mới hỏi anh Tony ơi, anh thông minh anh nghĩ giúp tụi em, giờ làm gì với đống giấy này, không lẽ vứt? Mình nói thôi tụi mày bỏ vào ngăn đá tủ lạnh, lấy ra làm khăn lạnh lau cũng mát. Nhớ cho tao vài cái…

Gần đây, các ụ pa này sang nữa, vì hợp thị hiếu nên cứ sang hoài, kiếm khối tiền. Vừa xuống sân bay, dù 2h sáng cũng luôn có một nhóm nhốn nháo ngoài cửa đợi, băng rôn giơ cao, hình ảnh in ra cầm trên tay, khóc lên xỉu xuống. Ụ pa vừa họp báo đứng lên, lại có một nhóm học sinh khác lao đến, tranh giành đánh nhau để được hôn vào ghế…

2/ Chứng chỉ chăn lợn’ và những điểm 10

Giấy viết: “Ông Edison, trò Tom con trai ông dù có học nữa cũng không làm được trò trống gì cả. Ông nên để trò ấy đi chăn lợn thì hơn”.

Câu chuyện đầu tiên trong đời tôi đọc về bằng cấp là một câu chuyện kỳ lạ. Chuyện nằm trong một cuốn tiểu sử của Thomas Alva Edison, cuốn tiểu sử danh nhân đầu tiên tôi được đọc từ hồi học tiểu học.

Bố tôi ngày ấy mua và yêu cầu tôi đọc rất nhiều những quyển sách “toàn chữ” như thế (dù trẻ con chỉ thích đọc truyện tranh, cái này chỉ có mẹ đáp ứng). Tên sách và tên tác giả tôi đã quên mất, nhưng có câu chuyện về tấm bằng của Edison, mà có lẽ xứng đáng tóm tắt toàn bộ cuộc đời của ông, hai mươi năm không đọc lại, tôi vẫn nhớ.

Đó là khi Thomas Alva Edison đã trở thành một nhà phát minh lớn, đã thay đổi lịch sử nhân loại bằng bóng đèn điện và máy thu thanh. Tổng thống Mỹ mời ông đến hội kiến. Trong cuộc gặp, Tổng thống hỏi nhà phát minh một cách cầu thị, rằng thưa ngài Edison, chẳng hay ngài lấy bằng kỹ sư ở trong nước hay ở châu Âu? Tất nhiên, người ta có quyền nghĩ rằng Edison đã lấy bằng ở một trường đại học danh giá nào đó.

Edison lấy trong túi ra một mảnh giấy cũ, đưa cho Tổng thống: “Đây là tấm bằng duy nhất mà tôi có”. Đó là mảnh giấy nhắn mà cô hiệu trưởng trường tiểu học đã gửi cho cha của Edison khi đuổi học ông. Giấy viết: “Ông Edison, trò Tom con trai ông dù có học nữa cũng không làm được trò trống gì cả. Ông nên để trò ấy đi chăn lợn thì hơn”.

Quãng đời đi học của Edison rất ngắn ngủi. Ông bị đuổi học vì đã tò mò làm những thí nghiệm suýt cháy trường, vì những câu hỏi “tâm thần” như tại sao người ta không thể lưu giữ giọng nói trong một cái hộp (sau này ông đã tự trả lời câu hỏi ấy bằng việc phát minh ra máy thu âm). Và tấm bằng duy nhất ông có, là một cái “chứng chỉ chăn lợn” như thế.

Nhưng có lẽ nhân loại đã gặp may, mẹ của Edison không tin vào “tấm bằng” ấy. Bà đưa con trai về nhà và bắt đầu tự dạy con trai bằng sách. Thomas được đọc sách triết học, lịch sử, tiếng Anh, những thứ mà ở trường không dạy. Và rồi lịch sử tôn vinh việc làm của bà.

Có bao nhiêu phụ huynh trong số chúng ta đang hành xử được như người mẹ của Thomas Alva Edison?

Tổng kết năm học, khi mà tỷ lệ học sinh giỏi ở rất nhiều lớp, nhiều trường, lên tới hơn 90%, thì dường như ngay cả danh hiệu “học sinh tiên tiến” bây giờ cũng là nỗi xấu hổ của nhiều bậc cha mẹ.

Những tỷ lệ hơn 90% giỏi này, hoặc là gần 100% đỗ tốt nghiệp, hoặc là rất nhiều con số khác của ngành giáo dục, có phản ánh đúng thực chất hay không, thật khó để trả lời. Sẽ cần một cuộc kiểm tra vô cùng lớn và tốn kém để có thể xác minh. Có lẽ mỗi người trong số chúng ta sẽ có câu trả lời của riêng mình.

Vấn đề quan trọng ở đây là, cho dù cái tỷ lệ học sinh giỏi cao ngất ngưởng kia là đúng hay chưa đúng, giỏi thật hay giỏi trên sổ sách, thì đó cũng chỉ là một hệ quy chiếu.

Trường học phổ thông chỉ là một trong những hệ quy chiếu, chỉ là một trong rất nhiều khóa học mà con cái chúng ta sẽ phải trải qua trong đời. Những phụ huynh cần nhìn theo hướng đó: đang có rất nhiều người, trong tâm lý, phó thác toàn bộ sự nghiệp giáo dục cho nhà trường.

Kết quả của sự tuyệt đối hóa ấy là họ thúc ép con em mình bằng mọi giá phải đuổi theo bảng thành tích trong nhà trường, như thể đó là “chứng chỉ” duy nhất con em mình có thể theo đuổi. Kết quả của quan niệm nhà trường là hệ quy chiếu duy nhất, khiến chính cha mẹ học sinh sử dụng nhiều phương pháp (nếu không muốn nói là thủ đoạn) để con em mình có bảng thành tích tốt. Họ thất vọng nếu con em mình không thể đạt được cái chuẩn chung của nhà trường – chuẩn ở đây là học sinh giỏi.

Bà mẹ của Edison hiểu rằng nếu cuộc đời là một cuộc thi, như Vietnam Idol chẳng hạn, thì nhà trường chỉ là một trong số các giám khảo. Việc học ở trường kéo dài tối đa cũng chỉ chiếm một phần ba đời người. Những ý kiến của vị giám khảo ấy có thể đúng có thể sai, và bà cần dạy con mình những kỹ năng, những kiến thức khác nữa để thuyết phục toàn bộ khán giả bầu chọn mới mong chiến thắng cuộc thi.

Nhưng thật ra thì mẹ của Thomas Alva Edison vẫn làm một việc dễ: đó là tin rằng con mình giỏi, bất chấp đánh giá của nhà trường. Nhiều phụ huynh nước ta, trước cái tỷ lệ 90% khá – giỏi của nhà trường, đứng trước một thử thách còn khó hơn bà Edison: đó là bằng cách nào đó, họ phải tin rằng con mình chưa giỏi.

Cha mẹ nào không nghĩ con mình giỏi? Một kết quả phù hợp với tâm lý của họ thật dễ chấp nhận biết bao. Nghĩ ngược lại mới khó.

Bản thân việc tuyệt đối hóa bất kỳ cái gì đều không hợp lý. Và sẽ nguy hại biết bao nếu cái thứ được tuyệt đối hóa ấy, cái quyển sổ liên lạc hay bảng điểm cuối năm ấy, không phải là thực chất.

Nghe những câu chuyện về việc phụ huynh ta điên đảo vì những cái danh hiệu khá giỏi trong nhà trường, tôi bất giác tự hỏi: Nếu ngày xưa mẹ của Edison tin vào “tấm bằng” kia như sự đánh giá duy nhất và cho con đi chăn lợn, thì giờ này nhân loại đã có bóng đèn điện chưa?

Bài trướcTuổi già nên phiên phiến mọi chuyện
Bài tiếp theoÔng tây, cô hàng phở và một chuyện tình…