Phi Trường Kontum
Cơn binh lửa (9) – Chiến trường Tam Biên
Chuyện kể của cựu Đại Úy Biệt Cách Dù Lê Đắc Lực
9)- Chiến trường Tam Biên
“Mong manh cánh lan rừng xanh, bên thác uốn quanh”
“Chiều lên Bản Thượng”
Đâu phải lần nầy đơn vị tôi mới lên rừng. Dù ở Tiểu Đoàn hay Thám Sát Delta, “lên rừng” là những cuộc hành quân thông thường và sở trường của chúng tôi. Ba Lòng, A-Shau, An Lão, Dakto… nơi nào không là núi rừng? Chỉ có thời gian Tết Năm Mậu Thân mới đánh nhau với địch ở Thành Phố Nha Trang, Gia Định, Saigon.
Địch ở trên rừng, chúng tôi lên rừng, địch về thành phố, chúng tôi về thành phố. Nơi nào có địch, cấp trên điều là chúng tôi tới.
Phía Tây Quê Hương Việt Nam, núi rừng xanh ngắt trùng điệp, nhìn màu xanh Quê Hương, vừa thấy đẹp, vừa thấy buồn, vừa thấy thương…
Chuyến đi nầy thì thấy thương hơn, lên tới vùng Tây Bắc Kontum, qua khỏi những cái tên mà người Thành Phố đã nghe tới nhiều, nhưng vẫn còn thấy lạ lẫm: Dakto, Dak-Bla, Ban-Het, Tân Cảnh, Tu-Morông, hay các Trại Lực Lượng Đặc Biệt Polei-Kleng, Plei-Djereng kế cận vùng Tam Biên. Tam Biên là khu vực giáp ranh của ba biên giới: Việt, Miên, Lào.
Vào khoảng tháng 2 năm 1971, gần tới Tết con Heo, năm Hợi. Trước ý đồ xảo trá của bọn giặc cọng, chúng muốn tái diễn cái trò lấn đất dành dân, nên đã chuyển quân tràn qua biên giới ngỏ hầu mở ra các cuộc tấn công xâm chiếm Thị Xã Kontum hay một vài Quận Lỵ lân cận để làm áp lực trong cuộc Hội Đàm 4 bên tại Paris.
Việt cọng đã đưa quân theo con đường mòn Hồ Chí Minh, từ Lào, từ Cambodia qua ẩn trú sát nách biên giới trong vùng rừng rú lãnh thổ trách nhiệm của Quân Đoàn II. Để xác định chính xác về đơn vị, cấp số và vùng trú quân của lực lượng địch, ngỏ hầu lập kế hoạch tấn công, tiêu diệt hay phòng thủ. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã trình xin Bộ Tổng Tham Mưu đưa Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để hành quân thám sát kiểm chứng, xác minh.
Toàn bộ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được không vận đến Phi Trường Kontum, và lập căn cứ Hành Quân ở mạn Tây sát bên hông Phi Đạo.
Vào những ngày cận Tết, Kontum trời se lạnh, thỉnh thoảng có những trận mưa rào, làm cho những chiến binh đang buồn vì phải xa Sài Gòn như chúng tôi lại càng buồn hơn. Từ căn cứ hành quân, lội bộ gần cả cây số mới tới khu phố Hàng Keo, nằm cạnh bờ sông Dak-Bla, để uống một ly cà-phê đen nóng và nghe vài ba bản nhạc giải khuây, ngoài ra chẳng có gì làm vui trên cái xứ cao nguyên hẻo lánh này.
Đêm Giao Thừa, nằm trải dài trên chiếc ghế bố, thỉnh thoảng tôi nghe từng tràng đạn pháo nổ dòn bên tai, ngoài trời thì liên tục được thắp sáng bởi những trái hỏa châu, đầu óc tôi cứ bị đè nặng trong không khí chiến tranh. Chẳng biết đến bao giờ Đất Nước tôi mới không còn bom rơi đạn nổ. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Sáng vừa thức dậy, Thượng Sĩ Mai Xuân Hùng, Thường Vụ Đại Đội, báo tin cho hay hôm nay sẽ có Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương ở Sài Gòn lên trình diễn ủy lạo. Tin thật vui mà lại quá buồn cười. Đơn vị tôi đóng ở ngã tư An Sương, Hốc Môn, Sài Gòn. Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương cũng ở Sài Gòn, sao không cho nghe hát ở dưới đó mà kéo nhau lên rừng, bên hát, bên nghe?
Mấy ngày qua, một hai Toán Thám Sát đã xâm nhập hoạt động trong các vùng gần Tam Biên, nằm về hướng Tây Nam Dakto, cách
Trại Polei-Kleng về hướng Tây Bắc khoảng 20 cây số. Các Đại Đội thì đang túc trực ứng chiến tại căn cứ Hành Quân.
Tối lại, ngoài các Sĩ Quan, Binh Sĩ trực hành quân và canh gác, bốn Đại Đội tập trung ngồi phía trước cái sân khấu dã chiến, được kê cao bằng những tấm palette nhôm của Quân Đội Mỹ, đặt trên các thùng “phuy” chứa đầy nước, phía sau là căn lều bạt để các Ca Nghệ Sĩ làm chỗ trang điểm, thay đổi y phục. Ban Nhạc đánh trống thổi kèn trên ấy, Ca Sĩ hát trên ấy, chúng tôi ngồi dưới đất, ngưỡng cổ hào hứng vừa nghe vừa nhìn.
Các Ca Sĩ lần lượt xuất hiện: Phương Hồng Quế, Phương Hoài Tâm, Phương Dung, Thanh Mai, Chế Linh, Hùng Cường, Duy Khánh v.v… Các Nữ Ca Sĩ cũng mặc đồ trận, quần áo rằn ri Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Biệt Cách Dù. Mà có gì lạ đâu, các Cô là Binh 1, Hạ Sĩ danh dự của các Quân Binh Chủng mà. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cũng là Hạ Sĩ danh dự đấy. Nghe giới thiệu lon lá như thế, chúng tôi rất vui và vỗ tay hoan hô liên tục, không dứt.
Duy Khánh xuất hiện trên sân khấu. Rất ít người Huế không biết Duy Khánh. Chúng tôi thì rành sáu câu bởi vì khó có ai hát hay hơn Duy Khánh với bài “Xuân nầy con không về!”
Hồi chưa nhập ngũ, gần Tết, tôi cũng bắt chước Duy Khánh: “Con biết bây giờ Mẹ chờ em trông, nhưng nếu con về bạn bè thương mong”. Ông Anh con ông cậu tôi, giáo sư, nghe tôi hát, phán một câu: “Thằng ni bất hiếu. Cha mẹ phải hơn bạn bè chớ !”.
Có lẽ ông Anh tôi ngoài tuổi nhập ngũ, chưa từng đi lính, nên không rõ tình Đồng Đội như thế nào. Sinh ra ta là Cha Mẹ, cứu mạng ta giữa chiến trường là Đồng Đội. Chưa từng đi đánh giặc, chưa từng gặp gian nguy, thập phần sinh tử nên khó biết cái tình Đồng Đội ấy thiêng liêng, cao quí như thế nào. Càng xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, tôi hiểu tâm trạng người lính trong bài hát hơn Ông Anh của tôi.
Sau đêm trình diễn, Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương trở về Sài Gòn ngay sáng hôm sau. Chúng tôi đón Xuân không có “thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ”, thiếu cả tiếng pháo đì đùng. Vì Tết Mậu Thân mà bây giờ có lệnh cấm pháo. Đồng bào cũng nản “quân giải phóng” nên không ai còn muốn đốt pháo làm chi để Việt cọng lợi dụng vào Thành Phố mà giết Đồng Bào.
Ba ngày Tết lặng lẽ trôi qua. Buổi sáng Mồng 4, Trung Úy Thứ, Sĩ Quan phụ tá Ban 3 Hành Quân thông báo: Đại Đội 4 có lệnh chuẩn bị hành quân.
Toán 5 Thám Sát Delta, đã chuyển công điện báo cáo là vừa khám phá trên đường mòn Hồ Chí Minh, ở gần ngã ba biên giới, ban đêm có nhiều đoàn xe Molotova và bộ đội Việt cọng từ Lào và Cambodia di chuyển về hướng Đông Đông Nam, trên phần lãnh thổ của Nước ta, dẫn đến gần các căn cứ 5 và 6 trong vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 22 trú đóng tại Tân Cảnh.
Theo yêu cầu của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù có nhiệm vụ tổ chức phục kích tiêu diệt đoàn xe, bắt sống tù binh để khai thác tin tức.
Đại Đội 4 Biệt Cách Dù được giao trách vụ này. Đại Đội Trưởng là Đại Úy Đào Minh Hùng, còn tôi là Đại Đội Phó.
Chiều hôm sau, Đại Đội được trực thăng vận vào vùng hành quân. Bãi đổ bộ nằm ở hướng Nam khu vực Tam Biên, cách đường biên giới Cambodia về hướng Tây chừng 1 km. Hai Trung Đội 3 và 4 do tôi chỉ huy được đổ xuống trước để an ninh bãi, không lâu sau đó là Ban Chỉ Huy Đại Đội và hai Trung Đội 1 và 2. Đại Đội di chuyển chừng cây số thì trời bắt đầu tối nên dừng quân nghỉ đêm.
Sáng dậy, Đại Đội chia ra hai cánh quân, tiến song hành về hướng Đông Bắc để tiếp cận con đường mòn do Toán 5 Thám Sát phát hiện.
Nơi đây chắc hẳn là chốn an toàn của địch, vì trên đường di chuyển Đại Đội đã nhìn thấy có rất nhiều đường dây điện thoại của chúng giăng đầy chằng chịt dọc theo các cành cây, thỉnh thoảng bắt gặp những căn lều trại và bếp núc đã bị bỏ hoang bên những khe suối, dưới những cụm rừng âm u, hoang lạnh.

Sẵn sàng lâm trận
Đi gần nửa ngày đường, vừa tiếp cận con đường mòn, đang dàn quân bố trí, thì Tổ khinh binh tiền đạo trông thấy một tốp bộ đội Việt cọng đang di chuyển ngược hướng, nên đã nổ súng tác xạ. Bọn địch dạt qua mé rừng bên phải phản công mãnh liệt, nhưng cuối cùng bọn chúng tháo chạy, để lại 05 xác chết tại hiện trường. Có thể đây cũng là đám tiền sát viên của chúng.
Sợ lộ mục tiêu sau khi chạm địch, Đại Úy Hùng cho lệnh Đại Đội di chuyển lên hướng Bắc chừng 500 mét thì dừng lại. Sau khi quan sát địa thế, Đại Đội dàn trải đội hình dọc theo con đường mòn chạy từ Tây sang Đông. Tôi ra lệnh Thiếu Úy Nguyễn Kim Long Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 đưa 2 khinh binh bò ra giữa mặt đường để chôn các trái mìn chống chiến xa M.15 dưới các vết xe lăn cũ.
Màn đêm xuống dần, rừng êm ắng, lặng yên và mù mịt tối. Tất cả Binh sĩ ghìm súng nằm chờ đợi. Ở một vài khoảng trống trong khu vực, thỉnh thoảng được những trái hỏa châu trên bầu trời tỏa sáng lờ mờ rồi dần dần tối hẳn.
Ba tiếng đồng hồ đã trôi qua, không một động tĩnh, nhưng không vì thế làm nản lòng các chiến sĩ Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, tất cả vẫn ghìm súng trong tư thế sẵn sàng đối phó với địch quân.
Tôi nhìn đồng hồ, đã 12 giờ 30 khuya, vừa định lấy bi đông uống một ngụm nước cho tỉnh táo, thì ầm, ầm, ầm, những tiếng nổ vang dội và chuyển động cả một khu rừng. Ba chiếc xe Molotova của địch đã bị trúng mìn, nằm lật nghiêng, choáng hết cả mặt đường. Tiếng la hét của đám Việt cọng, tiếng súng Đại liên, XM.16, M.79, xen lẫn tiếng đạn AK.47, CKC đã làm cho sự tịch mịch của khu rừng trở nên náo động, ầm ĩ.
Đêm trôi qua rất nhanh. Trời vừa hừng sáng, sau khi kiểm chứng và báo cáo kết quả tổn thất của địch bao gồm: 15 cán binh cọng sản bị sát hại, 03 xe molotova và rất nhiều quân dụng, lương thực đã bị phá hủy hoàn toàn, phía ta 5 chiến sĩ bị thương, trong đó có tôi bị một mãnh tạc đạn cắt vào cổ tay và 1 Hạ Sĩ Quan tử thương về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Đại Đội khởi sự di chuyển trở lại hướng Tây Nam, vừa băng ngược qua con đường mòn, di chuyển lên hướng ngọn đồi trước mặt để đến bãi triệt xuất, thì bất ngờ đạn địch từ trên bắn xuống xối xả, nhưng may nhờ sườn đồi có nhiều đá tảng và cây rừng lớn che chắn, nên chỉ làm bị thương 2 Hạ Sĩ Quan Tiểu Đội Trưởng và 5 Binh Sĩ.
Đại Đội ở vị thế bất lợi hơn địch, Việt cọng ở trên cao. Đại Đội tấn công lên đồi nhiều đợt mà không lên được, hao hụt không ít. Chuẩn Úy Lương Hữu Yên, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, đã bị tử thương, xác còn nằm trên sườn đồi, và không lâu sau đó Chuẩn Úy Trần Thanh Đồng đang tiến quân lên đỉnh đồi ở cánh phải, thì cũng cùng chung số phận, tôi đã hai lần điều động binh sĩ cố bò lên lấy xác, nhưng vì bị hỏa lực địch bắn càng quét dữ dội, nên không thể, Đại Úy Hùng bảo tôi báo cáo tình hình chạm địch và tổn thất về Bộ Chỉ Huy, đồng thời khẩn cấp xin máy bay oanh kích đến dội bom vào vị trí địch ở trên đồi cao.
Tiếng động Trực Thăng bay vòng trên khu vực, qua máy truyền tin PRC.25, tôi nghe rõ tiếng Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, đang liên lạc hướng dẫn các Phi Tuần Skyraider, A.37, trên đường bay đến để oanh kích chính xác vào tọa độ mục tiêu của địch.
Sau các Phi tuần oanh tạc thì Phi Đội Trực Thăng võ trang xuất hiện, bay vòng quanh, bắn xối xả, liên hồi xuống trên đầu địch. Vừa chấm dứt các đợt oanh kích, tác xạ, hai cánh quân hai mặt của Đại Đội, theo lệnh của Đại Úy Hùng, đã đồng loạt xung phong, tràn lên chiếm lĩnh đỉnh đồi. Xác Chuẩn Úy Yên và một số Binh sĩ đã được Thiếu Úy Long đưa một Tiểu Đội khiêng vác mang theo. Riêng thi thể Chuẩn Úy Đồng, vì nằm gần vị trí địch, nên đã không còn tìm thấy xác sau khi các chiến đấu cơ đã dội bom yểm trợ khốc liệt.
Quân địch hoàn toàn tan rã, bỏ thây rãi rác chung quanh đồi, 20 xác đếm được, còn một số “chém vè” cao bay xa chạy, tịch thu rất nhiều loại vũ khí, máy móc và quân dụng.
Vậy rồi, ngay chiều hôm đó, Đại Đội vừa tải thương vừa di chuyển đến bãi triệt xuất. Tới điểm hẹn, chờ không bao lâu thì một Đoàn Trực Thăng đáp xuống thấp. Từng Trung Đội đưa xác tử sĩ và thương binh lên trước, xong thay nhau nhảy lên các chiếc kế tiếp. Lần lượt Đại Đội đã được bốc đưa về lại Căn Cứ Hành Quân ở Phi Trường Kontum.
Cách hành quân của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù thường như thế. Thả các Toán Thám Sát vào các mật khu của địch, thông thường là ở những vùng dọc theo biên giới, núi non hiểm trở, ngoài tầm tác xạ, yểm trợ của Pháo Binh, để khám phá các căn cứ, kho tàng, địa đạo và lực lượng của Việt cọng. Nhưng, nếu cần thiết thanh toán mục tiêu, hành quân tiêu diệt, phục kích, thì các Đại Đội xung kích sẽ đảm nhận trách nhiệm.
Đây cũng là một trong hai cuộc phục kích hiếm hoi trong lòng địch, nơi các mật khu bất khả xâm phạm của bọn chúng, trước đây vào năm 1968 tại thung lũng Ashau, mà chỉ có lực lượng duy nhất là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mới có thể lập nên thành tích, công trạng lịch sử này.
Kontum là đây! Tam Biên là đây!
Lòng chúng tôi vui. Và trong niềm vui trở về, tôi bỗng nhớ một bài hát: “Đường lên núi rừng! Sao hãi hùng”.
Hãi hùng là tự người khác đem đến cho ta, từ con người, không phải từ thiên nhiên.
Người yêu Quê Hương thì không thấy Quê Hương mình hãi hùng bao giờ!
***

Tiến vào trận địa
Tàn Cơn Binh Lửa (10) – An Lộc Địa
Chuyện kể của cựu Đại Úy Biệt Cách Dù Lê Đắc Lực
10)- An Lộc Địa
“Bình Long Anh Dũng!”
“An Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân”
*****
1)- “Nhị thức Bộ binh, Thiết giáp”
Với ý đồ cưỡng chiếm Miền Nam của tập đoàn cọng sản Hà Nội. Mùa Hè năm 1972 cọng sản Bắc Việt đưa hai Binh Đoàn, đồng lúc tấn công Tây Nguyên (Kontum) và Khu Phi Quân Sự (Vùng Giới Tuyến). Trước tình thế này, Bộ Tổng Tham Mưu đã phải xử dụng đến lực lượng tổng trừ bị: Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến cho hai chiến trường này.
Bất ngờ, tại Quân Khu III, trong đêm 06 tháng 4 năm 1972, từ bên kia biên giới Campuchia, một Binh Đoàn 50 ngàn quân Việt cọng, bao gồm: 4 Sư Độ Binh, 1 Trung Đoàn Chiến Xa, 1 Trung Đoàn Pháo và Phòng Không hiện đại, bất thần tấn công cường tập, tràn ngập Quận Lỵ Lộc Ninh do Trung Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh trấn giữ.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh gom tất cả các lực lượng cơ hữu còn lại là Trung Đoàn 7 và 8 Bộ Binh, tăng cường thêm Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân lập tuyến phòng thủ mới tại Thị Xã An Lộc để ngăn chận địch.
Ngày 13 tháng 4 năm 1972, Việt cọng xiết chặt vòng vây, bắt đầu tấn công bộ chiến với nhị thức bộ binh và chiến xa vào An Lộc. Lực lượng phòng thủ tại đây đã quyết chiến, chống trả mãnh liệt, tổn thất nặng nề, không phận đã bị địch quân khống chế, trực thăng tiếp tế và tản thương không thể vào An Lộc được, tình thế vô cùng nguy nan.
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Bộ Tổng Tham Mưu nhận định tình hình, cần phải tăng cường gấp cho lực lượng phòng thủ, nếu chậm trể thì An Lộc sẽ thất thủ, và nếu tiền đồn An Lộc lọt vào tay địch thì hai tiếng đồng hồ sau đó chiến xa địch sẽ tới Bình Dương và Thủ Đô Sài Gòn sẽ bị đe dọa. Bộ Tổng Tham Mưu cuối cùng quyết định tung Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào tiếp viện.
Trong thời gian này tôi đang theo học Khóa Đại Đội Trưởng tại Trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, thì được tin trong ngày 16 tháng 4, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đã nhảy vào tiếp viện, tăng cường cho mặt trận An Lộc và đã bắt tay được với các lực lượng bạn cố thủ, đang trong tình huống hết sức nguy ngập, các tuyến phòng thủ đang bị “thủng” dần.

Sơ đồ chiến trường An Lộc
Theo tin tình báo cho biết, Việt cọng đã cố tình tung 4 Sư Đoàn 5, 7, 9 và Sư Đoàn Bình Long, ngoài ra còn tăng cường một Trung Đoàn Đặc Công, hai Trung Đoàn Pháo và Phòng Không, hai Trung Đoàn Xe Tăng, đây là lần đầu tiên chúng xử dụng xe tăng trên chiến trường Miền Nam, cố chiếm An Lộc trong vòng 5 đến 10 ngày, để ra mắt cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của chúng.
Vừa suy tư về tin tức nóng bỏng này, vừa lo âu cho đơn vị của mình tham gia trận đánh đang xảy ra ác liệt, tôi nôn nóng, băn khoăn vô cùng…Cũng may, một tháng qua mau thì mãn khóa, tôi vội vàng về trình diện Bộ Chỉ Huy hậu cứ đơn vị tại Ngã tư An Sương, Hốc Môn. Toàn bộ các Đại Đội Biệt Cách Dù đã vào chiến trường đã nửa tháng nay rồi, mà không có tôi cùng chiến đấu, cùng chia sẻ gian khổ, nguy nan cùng đồng đội. Yên lòng sao được.
Tôi cùng Thượng sĩ Phạm Văn Cứ cũng vừa đi tập huấn Taekondo trở về, nhận lệnh vào chiến trường ngay ngày hôm sau. Xe Jeep của Liên Đoàn đưa chúng tôi đến Lai Khê nơi Bản Doanh của Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, từ đó Trực Thăng UH.1B đã bốc thả chúng tôi xuống bên ngoài Thị Xã, vùng Xa Cam. Để tránh phòng không của địch, bây giờ chúng sử dụng cao xạ 37 ly (đạn nổ lần hai sau khi trúng mục tiêu), không còn dùng 12.7 như trước kia, Phi Công Việt Nam phải bay thật thấp, sát ngọn cây. Vừa tới bãi đáp ngay giữa Quốc Lộ 13, chúng tôi nhảy liền xuống, cả hai men theo rừng cao su tìm đường vào Đơn Vị, đang trú đóng ở giữa lòng Thành Phố. Lúc ấy trời vừa quá trưa.
Trên đường tiến vào Thành Phố Bình Long, nhà cửa cây cối điêu tàn, xơ xác, một vài nơi lác đác những cột cháy đen còn đang bốc khói. Rãi rác xác địch nằm ngổn ngang, những khuôn mặt măng sữa, chừng độ 14, 15 tuổi. Vượt qua tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 của Đại Tá Mạch Văn Trường, rồi băng qua Công Viên Hoàng Hôn, chúng tôi đã đến Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Liên Đoàn đóng tại một căn phố lầu, bên cạnh Cửa Hàng Tân Hoài Sương, trên Khu Phố đối diện Khu Chợ Bình Long.
Trình diện Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng xong, tôi nhận lệnh làm phụ tá Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, Đại Đội Trưởng là Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đang phòng thủ hướng Đông Đông Bắc, bên trái trục lộ chính Quốc Lộ 13, cửa ngõ Thành Phố, hướng đi Lộc Ninh. Bấy giờ thì Lộc Ninh đã bị Việt cọng chiếm giữ mất rồi.
Bọn giặc cọng không thể tiên liệu được là đơn vị Biệt Cách Dù đã nhảy vào Thị Xã An Lộc và đang mở các cuộc đột kích sở trường, thiện chiến để dành lại các phần đất đã lọt vào tay chúng.

Thị Xã An Lộc trở thành bình địa
Các Đại Đội Biệt Cách Dù, phòng ngự ba hướng chính của Thành Phố. Đại Đội 1 giữ hướng Đông Đông Bắc, Đại Đội 3 và 4 bố trí quân dọc theo Khu Nhà Thờ ở hướng Tây và Tây Bắc, Đại Đội 2 là lực lương trừ bị, rải quân phòng thủ ở khu vực chợ về hướng Nam cùng các dãy lầu phố kế cận Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Liên Đoàn.
Tình hình bấy giờ là quân Việt cọng vẫn còn chiếm giữ một số khu vực trong Thành Phố. Chúng đặt chốt trên các đường chính, trong các cao ốc còn sót lại ở hướng Đông Bắc và Tây Bắc, phân chia từng Tổ 3 người để bắn sẻ, hay tác xạ B.40, B.41 ngăn chận các cuộc chuyển quân, tấn công của các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa.
Mặc dù các khu vực hướng Bắc đã lần lượt tái chiếm, nhưng lực lượng địch tại Đồn Cảnh Sát Dã Chiến vẫn cố thủ, chúng dùng đại bác 57 và 75 trực xạ, nhưng cuối cùng với sự yểm trợ hỏa lực của Không Quân Hoa Kỳ và kỷ năng tác xạ súng cối 81 ly chính xác, hiệu quả của Trung Úy Cao Kỳ Sơn và Trung Sĩ Đỗ Đức Thịnh, cùng với lối tác chiến chuyên nghiệp, gan dạ, Biệt Cách Dù đã tiêu diệt toàn bộ bọn chúng ngay trong chiều ngày 18.4.1972. Tuy nhiên Biệt Cách Dù cũng đã phải ngậm ngùi trước sự hy sinh của Chuẩn Úy Nguyễn Quang Khánh và một số đồng đội.
Một phần lớn dân chúng đã thoát ra khỏi Thành Phố, theo QL.13 chạy về hướng Saigon, nhưng đồng bào bị Việt cọng pháo kích sát hại, một số bị chận lại ở Chơn Thành không cho chạy nữa. Đồng bào chết giữa lửa đạn hay sao? cọng sản không quan tâm. Không lý chúng làm Lễ ra mắt “Chính Phủ ma” ở một “Thành Phố ma”, Thành Phố không còn dân, dân chúng đã bỏ chạy hay sao?
Ngày 19 tháng 4 năm 1972, Việt cọng bắt đầu mở cuộc tấn công mới, với ý muốn dứt điểm Thành Phố, kết thúc trận đánh, thực hiện tham vọng giải phóng toàn bộ Thị Xà An Lộc. Chúng đưa Trung Đoàn 141, Trung Đoàn 275 với Đặc công và Chiến xa T.54 yểm trợ tấn công Đồi Gió, chúng áp dụng chiến thuật biển người, nhưng chúng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn văn Đĩnh chỉ huy, ngoài ra chúng còn pháo kích dồn dập vào ngay Thị Xã và sau đó ào ạt tấn công từ hai hướng Tây và Tây Bắc, nhưng chúng cũng đã bị các Chiến Sĩ 81 Biệt Cách Dù Đại Đội 3, Đại Đội 4 và các Đại Đội Biệt Động Quân phản công triệt hạ nhiều địch quân, thiêu hủy một số chiến xa, gây thảm bại cho bọn chúng.

Chiến xa địch bị bắn cháy khắp các ngã đường
Đến Ngày 4 tháng 5, một lực lượng địch, không rõ quân số, lợi dụng đêm tối, tấn công vào phòng tuyến của Đại Đội 3 và 4 hầu mong dành lại những khu vực đã bị Biệt Cách Dù tấn chiếm. Suốt một đêm giao tranh, chúng đã bỏ lại nhiều xác chết nằm vương vãi bên ngoài giao thông hào. Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Đại Úy Đào Minh Hùng, bị trọng thương và sau đó không lâu Đại Đội Phó Trung Úy Nguyễn Khoát Hải, bị mãnh đạn súng cối trúng vào mắt, Trung Tá Phan Văn Huấn đã đưa tôi về đảm nhận chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Biệt Cách Dù.
Quân cọng sản áp dụng đúng chiến thuật của Napoléon: “tiền pháo hậu xung”. Trong nửa đêm ngày 10, rạng sáng ngày 11 tháng 5 năm 1972, bọn chúng rót xuống Thành Phố 8 ngàn quả đạn pháo. Với hỏa lực đó không những Thành Phố An Lộc nhỏ xíu thành bình địa, mà tất cả các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị tiêu diệt. Không một sức đối kháng nào có thể tồn tại.
Mặc dù địch đã pháo xối xả, ác liệt vào Thành Phố chỉ trên 1 cây số vuông, nhằm hủy diệt hoàn toàn binh lực của chúng ta, nhưng bọn chúng đã hoài công, chẳng mang lại được kết qủa hay tổn thất gì đáng kể.
Các lực lượng cố thủ và tăng cường giải tỏa Thị Xã Bình Long, không phòng thủ tập trung trong một khu vực tại trung tâm Thành Phố, mà đóng rãi rác trên một chu vi rộng lớn, với các công sự, hầm hố kiên cố, vững chắc; hơn nửa lực lượng địch và ta lúc đó cũng đang bố trí cận kề, nên địch không thể liều lĩnh hỏa tập để sát thương, gây tổn thất nặng nề luôn cho bọn chúng.
Dứt các đợt pháo, theo hướng dẫn của của du kích địa phương, có cả đặc công và bộ binh tùng thiết, theo đúng chiến thuật “nhị thức bộ binh, thiết giáp”, khoảng hơn 20 xe tăng T.54 của địch tiến vào Thành Phố, theo ba hướng khác nhau. Hướng phòng thủ của các Đại Đội Biệt Cách Dù đã tiên đoán và sẵn sàng chờ địch. Bộ binh, đặc công Việt cọng tiến song song theo xe tăng, chúng vừa đi vừa bắn phá dữ dội.
Bấy giờ, về phía các Đại Đội Biệt Cách Dù phòng ngự, mìn chống tăng thiếu hụt. Một số lớn đã được sử dụng trong các trận đánh trước, công việc tiếp liệu chưa cung ứng kịp. Vả lại, loại mìn chống tăng hiện có, sức công phá còn yếu, chưa đủ để phá hủy toàn bộ xe tăng địch. Trung Tá Phan Văn Huấn đã sáng chế ra một loại mìn chống tăng “thần kỳ”.
Theo lệnh của Ông, các Đại Đội đã xử dụng đạn đại bác 105 ly hay 155 ly không nổ, đút vào đầu viên đạn một thỏi chất nổ TNT, gắn ngòi nổ mìn Claymore vào đấy, xong đặt mìn trên các con đường trước tuyến phòng thủ, chờ xe tăng địch tới đúng vị trí, bấm vào “con cóc”. Sức công phá của loại mìn chống chiến xa tự chế nầy đạt hiệu quả tối đa. Không những xe tăng bất động, bị cháy, mà bộ binh tùng thiết cũng gánh chung số phận và trên đường tạo ra một hố sâu rộng lớn đã làm cản trở đường chuyển vận của các xe tăng bọn chúng.
Nhờ vào sáng kiến này mà hơn 10 chiến xa T.54 của địch đã bị các đơn vị Biệt Cách Dù phá hủy, số chiến xa còn lại đã bị các đơn vị Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Trung Đoàn 8 Bộ Binh, và Địa Phương Quân tác xạ tiêu hủy bằng hỏa tiễn M.72 và XM.202, thây địch chết, bị thương nằm ngổn ngang, la liệt bên các xe tăng địch, trên khắp các ngã đường trong Thị Xã Bình Long, An Lộc.
Trên hướng phòng ngự của Đại Đôi 2, hai chiếc T.54 trúng mìn tan xác tại chỗ, hai chiếc còn lại đằng sau, quay mũi xe bỏ chạy lạc hướng, cũng đã bị các đơn vị Bộ Binh của Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 triệt hạ. Trước thất bại này, khả năng chiến đấu của chúng không còn, các chiến sĩ Biệt Cách dù đã leo lên đứng trên chiến hào, trên các xe tăng địch hoan hô chiến thắng của mình vang dội cả một vùng trời mù mịt khói lửa, đạn bom.

Đại Đội 3 Biệt Cách Dù reo mừng chiến thắng trên chiến xa địch bị bắn cháy
2)- Đuổi chuột…
(Đánh chiếm từng nhà)
Địch sau các cuộc tấn công qui mô, áp đảo, chúng không còn khả năng tấn công lớn nữa, vì thế các Đại Đội Biệt Cách Nhảy Dù được lệnh “đuổi chuột từng nhà”, quét sạch địch khỏi Thành Phố. Việt cọng tháo lui, đang ẩn núp trong các nhà dân bỏ hoang, chúng chiếm cứ một vài cao điểm để bắn sẻ vào binh lính chúng ta. Ngoài ra, không ít cán binh Việt cọng, sau khi đơn vị chúng bị đánh tan tác, bị đánh đuổi ra khỏi Thành Phố, chúng bị kẹt lại nên cũng lẩn trốn trong nhà dân, chưa biết cách tấn thối như thế nào. Tuy nhiên, vũ khí chúng vẫn còn trong tay, còn có thể gây nguy hiểm cho binh sĩ của chúng ta.
Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn lệnh cho các Đại Đội Trưởng phải nhanh chóng trừ khử toàn bộ bọn chúng. Sở trường chuyên nghiệp của Biệt Cách Dù bắt đầu đem ra tái sử dụng. Các Toán, chờ trời vừa sụp tối là triển khai đội hình, “đục tường” tiến từ nhà nầy qua nhà khác, tiêu diệt địch từng tên một bằng vũ khí cá nhân là dao găm, lựu đạn. Trong trường hợp nầy, lựu đạn là loại vũ khí đắc dụng nhất, “đục tường” chỉ là một cách nói. Việt cọng bắn phá Thành Phố một cách bừa bãi, không phân biệt mục tiêu quân sự hay nhà ở của dân chúng, nên hầu hết nhà cửa đều bị sập hoặc hư nát. Nhờ vậy, các Chiến sĩ Biệt Cách Dù đã lợi dụng những bức tường nứt đổ, những vách tôn, vách lá rách nát, để tiến từ nhà nầy qua nhà khác. Lần hồi, nội vi Thành Phố không còn bóng dáng địch. Chúng chỉ còn cầm cự vòng ngoài, thỉnh thoảng pháo kích đạn cối vu vơ vào Thành Phố để cầm chừng.
Mục tiêu còn lại cuối cùng là Đồi Đồng Long. Để chuẩn bị cho cuộc tấn công tái chiếm Đồi Đồn Long, trong lúc khai triển đội hình khi đến gần chân đồi với đầy dẫy cây rừng hoang dại, các Chiến Sĩ Đại Đội 2 Biệt Cách Dù đã phát hiện một căn hầm, nằm khuất lấp dưới những tấm ván gỗ và những cỏ cây xác xơ vì bom đạn,. Các Binh sĩ áp sát đến miệng hầm, họ nghe vài ba tiếng động sột soạt nhỏ phát ra từ bên trong. Rất thận trọng, họ chưa vội nổ súng hay tung lựu đạn mà chỉ phát lời kêu gọi đầu hàng, đồng thời cấp báo ngay về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn ra lệnh Đại Úy Sơn cho Binh sĩ quan sát kỹ càng, có thể là địch quân mà cũng có thể là đồng bào, nhưng bất kể họ là ai, với hơn hai tháng chiến trận xảy ra nơi đây, không lương thực, nước uống, thì đâu còn sức đề kháng để chống cự, phải tìm mọi cách đưa họ ra khỏi căn hầm đó. Và thật không thể tưởng tượng được, chỉ vài ba phút sau đó, có hai em bé gái khoảng chừng 6, 7 tuổi bò ra, trên người chỉ còn những mảnh vải rách nát, tả tơi che thân, đất bùn, ghét bẩn bám đen xì trên thân thể khô cằn, còm cỏi, chỉ còn da bọc xương, hai mắt sâu hoắm trên một khuôn mặt hốc hác, ngây dại, thờ thẩn, giọng nói khàn đục, thiểu não, nhìn hai bé chẳng khác gì hai bộ xương biết đi, thật quá đổi thương tâm, đau lòng, không ai có thể cầm được nước mắt.
Trung Tá Chỉ Huy Trưởng đã mang hai bé về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và giao cho Ban Quân Y của Bác Sĩ Nguyễn Thành Châu khám nghiệm, chữa trị, chăm sóc cho đến khi hai bé tạm bình phục và hai bé đã kể lại mọi sự việc như sau: “Hai cháu tên là Hà Thị Loan và Hà Thị Nở, con của Trung Sĩ Hà Văn Hiến, phục vụ tại Tiểu Khu. Khi Việt cọng tấn công, pháo kích vào An Lộc, Mẹ cỏng em trai 4 tuổi và đắt hai cháu chạy giặc, thì bất ngờ Mẹ bị trúng đạn pháo chết ngay tại chổ, em trai bị thương nặng ở chân. Chúng cháu liền cỏng em trai chạy xuống ẩn trú trong một cái hầm kế cận chân đồi Đồng Long, trong đêm hôm đó Em trai cháu chết, qúa khó khăn để chôn cất, nên chúng cháu để xác Em trai nằm bên cạnh cho đến thối rửa chỉ còn bộ xương. Chúng cháu trốn ở đó suốt hơn hai tháng, lúc đầu may nhờ có một số cơm gạo sấy của ai bỏ lại đã ăn dần, về sau ăn sống luôn mấy con gà con lạc mẹ đang trốn chung trong hầm. Cạn kiệt lương thực, đói qúa ban đêm khi không còn nghe tiếng đạn pháo kích, thì mò ra khỏi hầm kiếm rau cỏ mà ăn. May nhờ đến ngày hôm nay được các bác tìm thấy mà cứu sống các Cháu.
Trong năm 1973, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã đưa hai Cháu Loan và Nở lên Đài Truyền Hình Sài Gòn, để kể lại bao nổi gian khổ, đói khát hãi hùng, kinh hoàng trong hơn hai tháng ẩn trốn ở An Lộc. Đến năm 1974, hai Cháu đã được một người Mỹ nhận làm con nuôi, và hiện nay đang định cư tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
3)- Tái chiếm đồi Đồng Long
Đến ngày 12 tháng 6 năm 1972. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được lệnh tái chiếm Đồi Đồng Long. Đây là một trận đánh sinh tử, quyết liệt cuối cùng mà Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đã được cấp trên tin tưởng giao phó. Vận mạng của An Lộc cũng sẽ tùy thuộc vào sự thành bại trong trận huyết chiến này.
Đích thân Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn đã điều động Đại Đội 2 và Đại Đội 3 chia làm hai cánh, Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Đông và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, phối hợp cùng hai Toán Thám Sát do Thiếu Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Nam, tất cả lợi dụng vào nửa đêm trời tối, âm thầm, kín đáo bò sát lên đỉnh đồi, nằm ém quân tại chỗ, đợi cho đến khi trời vừa hừng sáng, sau khẩu lệnh xung phong của Đại Úy Sơn, tất cả đã đồng loạt nổ súng xối xả, tấn công vào các pháo tháp, hầm trú ẩn của địch quân, bọn địch dù đông, công sự phòng thủ vững chắc, nhưng quá bất ngờ, không kịp trở tay trước lối đánh thần tốc, táo bạo của Biệt Cách Dù, nên một số đã bị sát hại, số còn lại vừa định thần đã phản ứng chống trả, nhưng không ngăn cản được quyết tâm tái chiếm đồi Đồng Long của các Chiến sĩ Biệt Cách Dù, cuối cùng chúng cũng đã bị tiêu diệt, hay đã phải buông súng đầu hàng.
Hai Toán Thám Sát đã không chậm trễ, khai triển đội hình công hãm và thanh toán cứ điểm cuối cùng của địch trên chóp đỉnh, bốn tên địch quân ngoan cố cầm cự trong tuyệt vọng, để rồi phải phơi thây thảm khốc. Thiếu Úy Lợi và các Toán viên đã mừng rơi nước mắt, cùng cầm Quốc Kỳ Việt Nam Cọng Hòa cắm xuống ngay trên đỉnh Đồi Đồng Long.
Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ lại bắt đầu ngạo nghễ tung bay trước gió, giữa bầu trời một màu trong xanh pha trộn những tia sáng rực rỡ của ánh bình minh, đánh dấu cho một ngày mới, một ngày mà An Lộc, Bình Long đã sạch bóng quân thù, một ngày mà Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III đã ra tuyên bố: “Thành Phố Bình Long, An Lộc đã hoàn toàn được giải tỏa”.
Trước chiến thắng vang dội, hiển hách của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh khi đến thị sát chiến trường An Lộc, đã thừa lệnh Tổng Thống và Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, gắn cấp bậc Đại Tá đặc cách tại mặt trận cho Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Cùng lúc đó, Tướng tử thủ Lê Văn Hưng đã không tiếc lời khen ngợi và hầu hết các đơn vị tham chiến tại Bình Long đều vui mừng, bày tỏ lòng cảm phục đối với các Chiến sĩ 81 Biệt Cách Dù đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt quân thù, dành lại những phần đất đã lọt vào tay bọn chúng.
4)- Nghĩa trang
Dĩ nhiên, trong một trận đánh dữ dội nhất nhì trong Lịch sử Chiến tranh Đông Dương, Việt cọng tung hết lực lượng sẵn có ở miền Đông Nam Bộ và các Sư Đoàn thiện chiến của chúng từ Miền Bắc xâm nhập vào chiến trường An Lộc. Bên phía Chính Quyền và Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa quyết tử chiến, giữ không cho giặc chiếm một tất đất nào, nên đã đưa vào mặt trận những Đơn vị Quân Đội nổi danh, thiện chiến, thì sự hy sinh, tổn thất của hầu hết các đơn vị này không phải là ít, trong đó có Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của chúng tôi.

Với các Chiến Sĩ tử vong tại mặt trận, ban ngày chết bất cứ ở đâu, thì ban đêm đều được đồng đội mang về tập trung chôn cất ở khu đất cạnh Chợ An Lộc, như nghiêm lệnh của Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn. Không thể chôn cất ở một địa điểm nào xa Thành Phố vì tình hình chiến sự bấy giờ không cho phép, Liên Đoàn sử dụng khu đất trống phía trước Chợ An Lộc để an táng những Chiến Sĩ Biệt Cách Dù đã nằm xuống. Việc chôn cất khẩn cấp, giữa lúc giao tranh vẫn đang còn tiếp diễn, dù vậy chúng tôi thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Mộ có hàng lối, có đắp nấm và có bia gỗ khắc tạm tên tuổi, v.v…
Về sau này, đích thân tôi được Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn chỉ thị phác thảo họa đồ, điều động một Toán 4 binh sĩ, gồm có Hạ sĩ Sang, Hạ sĩ Trúc (Đại Đội 4), Hạ sĩ 1 Diệp, Binh 1 Ngà (Đại Đội 1) bắt tay vào sửa sang 68 phần mộ, dựng các bia đá có khắc ghi đầy đủ Danh Tánh, Cấp Bậc, Ngày Tháng tử trận và xây dựng khuôn viên bao quanh Nghĩa Trang, mặt chính diện ghi khắc hai câu thơ:“Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” và dựng lập một Đài Tử Sĩ “Tổ Quốc Tri Ơn” bằng gạch, tô ciment, cao 10 ft, bên dưới bệ khắc nổi hai câu thơ:
“An Lộc Địa sử lưu chiến tích.
Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân”
Vật liệu cần thiết cho công việc nầy là xi măng, gạch cát phần lớn là do các Hiệu Buôn trong khu vực Liên Đoàn phòng thủ ủng hộ. Tôi phải kể đến sự đóng góp cao quí của cửa hiệu Tân Hoài Sương đã hết lòng hỗ trợ. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng một số xi măng của các Cửa Hiệu đã bị đạn pháo kích của Việt cọng tàn phá, chủ nhân đã di tản.
Về sau chính quyền Tỉnh, theo sự đề nghị của Trung Tá Huấn, đã đền bù cho chủ nhân các thương hiệu nầy, theo chính sách gọi là “bồi thường chiến tranh” của Bộ Xã Hội, Chính Phủ VNCH.

Về hai câu đối ghi ở Đài Tử Sĩ Tổ Quốc Tri Ơn, phát xuất từ hai Câu Thơ của Cô Giáo Pha dạy ở Trường Tiểu Học Thị Xã Bình Long. Cô Pha trúng đạn pháo kích bị thương ở chân, không di chuyển được. Biệt Cách Dù đưa Cô về Trạm Xá Dã Chiến ở cạnh Bộ Chỉ Huy chăm sóc. Khi thương tích đã bớt, đi lại được bằng đôi nạng gỗ do các Chiến Sĩ Biệt Cách Dù tự chế, hằng ngày cô nhìn qua cửa sổ, thấy chúng tôi dưới làn mưa đạn, mịt mù khói lửa đang cặm cụi chôn cất, đắp mộ, dựng bia cho các đồng đội đã hy sinh. Xúc cảm trước những tử vong cao cả này và với lòng cảm mến, đội ơn sâu xa của một người dân với Quân Đội VNCH nói chung và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù nói riêng, cô đã sáng tác hai câu thơ:
“An Lộc Địa Sử lưu chiến tích,
Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân”
Khi tình hình Thị Xã tạm yên. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1972, trong chuyến viếng thăm chiến trường An Lộc, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, Tổng Trưởng Dân Vận Hoàng Đức Nhã và Tướng tử thủ Lê Văn Hưng đã đến kính cẩn quỳ lạy, niệm hương cầu nguyện và rơi nước mắt trước Đài Tử Sĩ của Nghĩa Trang 81 Biệt Cách Dù.
Sau sự kiện này, Thị Xã An Lộc đã hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa.
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chúng tôi sau 68 ngày chiến đấu đã hy sinh 68 Chiến sĩ và hơn 300 Quân Nhân bị thương tích. Đến ngày 24 tháng 6 năm 1972, Liên Đoàn được lệnh rút khỏi An Lộc, về nghỉ dưỡng quân 2 ngày tại Bộ Chỉ Huy đơn vị ở ngã tư An Sương để bổ sung quân số, trang bị lại đầy đủ vũ khí, quân trang, quân dụng, và 48 tiếng đồng hồ sau đó, ngày 28 tháng 6 năm 1972 lại khăn gói lên đường ra Vùng I hỏa tuyến để tham gia tái chiếm Cổ Thành, Quảng Trị.
Hết “Bình Long Anh Dũng”, bây giờ là “Trị Thiên Vùng Dậy”