Tuấn Khanh, tên thật là Trần Ngọc Trọng (sinh năm 1933), là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông vừa sáng tác tình ca nói chung, vừa sáng tác nhiều ca khúc nhạc vàng. Ngoài viết nhạc, Tuấn Khanh còn là một ca sĩ với nghệ danh Trần Ngọc.

Trần Ngọc Trọng sinh năm 1933 tại Nam Ðịnh. Năm 1950, ông về sống ở Hà Nội và học vĩ cầm từ người anh cả. Năm 1954, ông giành giải nhất của đài phát thanh Hà Nội về giọng hát.

Năm 1955, ông di cư vào miền Nam Việt Nam. Tại đây ông sáng tác nhạc phẩm đầu tiên là “Ðò ngang” (viết cùng Y Vân).

Năm 1982, Tuấn Khanh rời Việt Nam sang Hoa Kỳ rồi định cư tại Garden Grove, California.
Năm 2008, ông về thăm Việt Nam và cho ra mắt đĩa nhạc Hoa soan bên thềm cũ.
——————————————
Một số tác phẩm của Tuấn Khanh:
Chiếc lá cuối cùng
Chiều biên khu
Dù thương không nói
Dừng bến
Dưới giàn hoa cũ
Đò ngang
Đêm này nghỉ đỡ chân
Giọt lệ vu quy
Hoa cài thép súng
Hai kỷ niệm một chuyến đi
Hoa soan bên thềm cũ
Khuya nay
Lời tạ tình
Mộng đêm xuân
Một chiều đông
Mùa xuân đầu tiên
Ngày nào con trở về
Nhạt nhoà
Như muôn lớp sóng
Những ngày xa cách
Nỗi niềm
Quán nửa khuya
Tại vắng anh
Thầm gọi tên em
Tình trong khói lửa
Xin cho đôi mình

————————————————————————————

Nhân vật Sài Gòn: Nhạc sĩ Tuấn Khanh (1933) ‒ Sài Gòn Sầu Đông.
02/05/2019

Mỗi người Sài Gòn cho và nhận từ nơi này theo một cách, nhạc sĩ Tuấn Khanh (sinh năm 1933) thì cho Sài Gòn mối sầu đông của đất Bắc, nó làm cho thành phố vốn nhộn nhịp có thêm quãng lặng về sự hoài cảm.

Ngày nay, đặc biệt giới trẻ, ít ai biết Tuấn Khanh “già” là ai, nhưng một vài ca khúc của ông thì vẫn thoang thoảng đâu đó. Nào Chiếc lá cuối cùng, Hoa soan bên thềm cũ, Đường xưa lối cũ, Chiều biên khu, Một chiều đông, Nhạt nhòa, Dưới giàn hoa cũ… Lên mạng tìm thì chủ yếu thấy Tuấn Khanh “trẻ” (sinh 1968), hiện đang sống tại Sài Gòn.

Sinh năm 1933 tại Nam Định, tên đầy đủ là Trần Ngọc Trọng (có nơi ghi Trần Trọng Ngọc), tập chơi vĩ cầm từ 5‒6 tuổi, 10 tuổi biết xướng âm. Năm 1950, ông lên Hà Nội sống; năm 1954 được giải nhất về ca hát của Đài Phát thanh Hà Nội ‒ khi đi hát, ông lấy tên Trần Ngọc; năm 1955, một mình vào Nam định cư. Về bút hiệu Tuấn Khanh, ông ghép chữ “Tuấn” là tên người anh đã dạy nhạc cho mình và “Khanh” là tên người con trai của ông anh này.

Theo vài tư liệu thì năm 1949, Tuấn Khanh viết ca khúc đầu tay Hai sắc hoa ti‒gôn (phổ thơ T.T.KH.)? Nhưng chính Sài Gòn mới là mảnh đất làm nên tên tuổi, nó như là quê hương thứ hai của Tuấn Khanh. Năm 1955, sau một năm định cư ở đây, ông thành công với ca khúc Thăng Long thành hoài cổ (phổ thơ Bà Huyện Thanh Quan) và Đò ngang (viết chung với Y Vân). Năm 1956, ca khúc Hoa xoan bên thềm cũ (trong văn bản ông viết “soan”) được viết để tặng một nữ sĩ, mà sau này là bạn đời ‒ đã đưa tên tuổi ông đến với rộng rãi quần chúng.

Ông kể: “Khi tôi vào đến trong Nam, thì tôi có viết chung với nhạc sĩ Y Vân nhạc phẩm Đò ngang và đó cũng là sáng tác đầu tiên của tôi. Trước khi tôi vào Nam, tôi đã thi hát ở Hà Nội, và đoạt thủ khoa, bởi vậy khi vào Nam tôi được nhận vào làm Đài Phát thanh Sài Gòn, cũng từ nơi làm việc này tôi đã gặp nhạc sĩ Y Vân, và hình như giữa chúng tôi vì cùng tuổi, ngang tài nên hợp nhau và từ đó mới có ca khúc đầu tiên ấy”.

Trước 1975, ông viết khoảng 120 ca khúc tại Sài Gòn, chủ yếu là tình ca ‒ được xếp vào thế hệ thứ 3 của nền tân nhạc. Một số ca khúc nổi tiếng ông viết chung với nhạc sĩ Hoài Linh như Quán nửa khuya, Hai kỷ niệm một chuyến đi…

Chính cái tinh thần hoài cổ một cách lạc quan đã đưa ca khúc Tuấn Khanh đến với sự trong sáng hiếm thấy. Bởi thời kỳ này, do bối cảnh chiến tranh, các tác giả thường có khuynh hướng thơ mộng thái quá hoặc sầu bi, nặng nề.

Tuấn Khanh tâm sự: “Bản nhạc nào tôi viết đúng với tâm sự của mình thường dễ đi vào lòng người hơn những bài thương vay khóc mướn. Tuy nhiên, cũng có những bài tôi viết từ xúc cảm một câu chuyện, một tâm sự của người khác. Và những bài này, cũng được thính giả đón nhận”.

“Được mô tả là một nhạc sĩ lãng mạn với khả năng lao tác tinh thần bền bỉ hiếm thấy, đem hương thơm đến các tâm hồn yêu nhạc nhiều thế hệ. Có thể ít người biết rằng, trong đời thường, Tuấn Khanh là người nặng tinh thần gia đình, ông ghét lạm dụng hai chữ ‘nghệ sĩ’ để sống buông tuồng, thiếu đạo lý”, nhà thơ Du Tử Lê cho biết.

Ở miền Nam mà luôn nhớ miền Bắc, thì làm sao có thể nói Tuấn Khanh là người Sài Gòn, nhưng ông cứ Sài Gòn một cách tự nhiên, chẳng chút mâu thuẫn. Bởi trong nỗi nhớ ấy, ông đã sẻ chia cùng không khí Sài Gòn những hình ảnh, những nỗi niềm chung. Nghe Hoa xoan bên thềm cũ, nhiều người cứ ngỡ đó là thềm cũ ở bất kỳ bản quán nào, chứ không nghĩ nó là câu chuyện riêng của Nam Định hay làng quê nào đó ở miền Bắc. Theo nhà phê bình Hoài Nam (Úc châu), Tuấn Khanh có lẽ là nhạc sĩ đầu tiên đưa hoa xoan (còn gọi sầu đông, sầu đau…) vào âm nhạc, một loại cây đặc trưng của xứ Bắc đã nở hoa và tỏa hương rất Sài Gòn.

Đúng như lời của nhạc sĩ Phạm Duy: “Tuấn Khanh đã thành công khi nối liền âm nhạc miền Nam với không khí thời tiền chiến” ở Hà Nội. Minh chứng dễ nhận thấy nhất là ca khúc Dưới giàn hoa cũ, chính vì vậy, mà không dễ đề quy kết Tuấn Khanh thuộc dòng nhạc “sến” hay “sang”, dù hai chữ này, ngày nay, đã là một khái niệm lỗi thời.

Kể từ năm 1983, Tuấn Khanh định cư tại Mỹ, mở quán phở nổi tiếng là Hoa Soan Bên Thềm Cũ, ông cho rằng nấu phở cũng phải đức độ như viết nhạc. Sống tha hương, có người cho phở của ông giữ được chất Nam Định, phần đông hơn thì nói rằng phở của ông đặc trưng cho cái gu phở Sài Gòn. Tính tới tháng 6/2009, ông đã viết khoảng 70 ca khúc tại Mỹ; riêng phổ thơ, ông đã có hơn 50 bài thiền ca.

“Mỗi ca khúc của ông khoác một âm điệu khác nhau. Nhưng có chung một mẫu số. Mẫu số thiết tha. Mẫu số chân thật. Mẫu số đáp ứng rung động trái tim nhiều người. Sâu hơn nữa, có người còn thêm rằng, bên cạnh khả năng trời cho kia, Tuấn Khanh còn là một thi sĩ. Nơi bất cứ ca khúc nào của ông, thỉnh thoảng, người ta cũng bắt gặp những hình ảnh, những ngôn ngữ rất thi ca, rất trữ tình và rất bất ngờ”, Hồ Huấn Cao phê bình.

Riêng ca sĩ Duy Trác thì ngưỡng mộ: “…Ông có một giọng ca trầm ấm vì căn bản là một nhạc sĩ, khi hát ông có sẵn nhiều ưu điểm. Giọng ca Trần Ngọc tình cảm nhưng rất mực thước, không bao giờ ông thêm bớt một chút gì vào nguyên bản ca khúc mình trình bày như một số ca sĩ thường làm”.

Chất e ấp, mà tôi gọi là hương vị sầu đông, có lẽ là một đóng góp ý vị và kín đáo của Tuấn Khanh với nền tân nhạc ở Sài Gòn. Chính vì lẽ đó mà mỗi khi nghĩ về Sài Gòn, hay nghĩ về 80 năm tình ca Việt Nam (1930‒2010), không thể nào quên hương vị sầu đông của Tuấn Khanh.
——————————————————————————————–
Những cánh chim dịu dàng, thơ mộng trong cõi giới âm nhạc Tuấn Khanh
Tác giả Du Tử Lê

Tôi không biết trong quá khứ, đã có một nhà thơ nào, vì lòng yêu mến một ca khúc mà, lấy từng chữ trong ca khúc ấy, để mở đầu cho những câu thơ của mình? Năm 2005, điều đó, đã xẩy ra với nhà thơ Nguyên Nghĩa, ở Toronto, Canada; khi ông lấy từ chữ thứ nhất tới chữ cuối cùng của ca khúc “Chiếc lá cuối cùng” của Tuấn Khanh, làm thành một bài thơ dài trên 100 câu. Đoạn mở đầu bài thơ mang tính “tử công phu” này của Nguyên Nghĩa như sau:

Đêm thầm thì gió theo về muôn hướng
Qua song trăng chấp chới một đường bay
Chưa hẹn hò bến nhớ sẽ đan tay
 chốn cũ đã vương đầy bóng vỡ
Trời tim tím bởi nỗi lòng đang ngỏ
Sao ngu ngơ do ý tại hoàng hôn
Vội chi mà dốc lạnh dấu mùa sang
Sáng vùng thẫm nhỡ nhàng nơi viễn xứ.”

(8 câu thơ này đi ra từ câu nhạc: Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng.)

Tôi không biết nguyên nhân sâu xa khiến Nguyên Nghĩa chọn ca từ của ca khúc “Chiếc lá cuối cùng,” thay vì ca từ của những ca khúc khác?
Tôi cũng không biết Nguyên Nghĩa có một (hay nhiều hơn một)…“chiếc lá cuối cùng” trong đời anh (?). Nhưng hiển nhiên, nhạc sĩ Tuấn Khanh, tác giả của rất nhiều ca khúc mà sức sống vạm vỡ, bền lâu của chúng, còn mạnh mẽ, vang dội đến ngày hôm nay, như “Hoa soan bên thềm cũ,” “Một chiều đông,” “Nhạt nhòa,” hoặc “Dưới giàn hoa cũ” vân vân…đã nhận được vinh dự hiếm hoi này.

Tuấn Khanh /Trần Trọng Ngọc (1) là một trong những nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ nhất sau biến cố chia đôi đất nước, 1954, ở miền Nam; đã để lại cho thời kỳ đầu của lịch sử tân nhạc Việt Nam, 20 năm miền Nam, những dòng nhạc lấp lánh hy vọng. Không chỉ ca từ mà, luôn cả âm điệu nhiều ca khúc của Tuấn Khanh cũng lấp lánh tin yêu, sáng lên từ những lãng mạn tình yêu đôi lứa. Sự kiện này, trái ngược với nội dung và, luôn cả âm điệu của những ca khúc được viết bởi thế hệ nhạc sĩ thứ hai, như Từ Công Phụng,Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên…

Không cần một chút cố gắng hay chú tâm nào, người ta vẫn dễ dàng nhận ra đa số những ca khúc viết bởi các nhạc sĩ kể trên, dường được xây dựng trên những tan vỡ, chia ly. Làm như phụ rẫy, tuyệt vọng là ngọn hải đăng dẫn đường cho những nhạc sĩ trẻ đó.

Không biết có phải, điều thứ 2 trong ba điều chính của bản hiệp định Geneva ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, quy định rằng, sau 2 năm tạm thời chia đôi Việt Nam, một cuộc tổng tuyển cử sẽ được thực hiện, để thống nhất hai miền đất nước, nên sự bỏ nhà cửa, mồ mả ông cha để di cư vào miền Nam, chỉ là nhất thời? Và hy vọng thống nhất, đoàn tụ của hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam, cùng hàng trăm ngàn cán bộ CS miền Nam, tập kết ra Bắc, đã là ngọn lửa ấm áp ở mặt bên kia ly tán.

Nhưng sau hai năm, chính phủ miền Nam do Tổng thống Ngô Đình Diệm đứng đầu, đã từ chối thực thi điều khoản này. Số người miền Bắc di cư, cũng như những người có thân nhân tập kết, hiểu rằng, chia ly đã chính thức bước vào đời họ, như một định mệnh bất khả hoán chuyển. Và, cùng với sự xập xuống của bức màn sắt, sáng tác của những nhạc sĩ trẻ, cũng di lưu, đổi mạch? (2)

Dù đến với cõi giới âm nhạc rất sớm, ngay khi chỉ mới 5, 6 tuổi, do sự hướng dẫn của người anh cả, với chiếc đàn violon, và khi lên 10, Tuấn Khanh đã có thể xướng âm chính xác một ca khúc, nhưng ở những bước khởi đầu, ông vẫn gặp khá nhiều khó khăn.

Sinh trưởng trong một gia đình ảnh hưởng nặng nề truyền thống Nho phong, Tuấn Khanh kể: “Gần như không buổi tập đàn của tôi mà không bị ông Ngoại chống đối gay gắt. Mỗi khi nghe được tiếng ‘o e’ từ cây violon của thằng bé, dù đang uống rượu, ông cũng dừng lại, chửi cho mấy câu. Câu chửi quen thuộc nhất của ông, tới giờ, tôi vẫn còn nhớ là: “Ối giời! Đàn với địch, nghe điếc cả lỗ đ…“. Nếu không có sự ủng hộ của bố tôi, thì nhiều phần tôi đã phải bỏ ngang từ bỏ đam mê của mình rồi!”

Tác giả ca khúc “Hoa soan bên thềm cũ” cho biết, thời thân sinh ông còn làm trưởng ty Bưu Điện ở Thanh Hóa, một hôm ông cụ dẫn cả nhà đi xem một cuốn phim tình cảm của Pháp, với đoạn kết thật bi thảm. Trở về, mọi người xúm lại, hào hứng bàn tán về nội dung cuốn phim, trừ Trần Trọng Ngọc. Hồi lâu, thấy vắng mặt đứa con trai út, được ông thương yêu nhất; ông cụ vào phòng tìm. Thấy con đang úp mặt khóc trên gối. Những tưởng cậu bé bị các anh, chị mắng mỏ hay hiếp đáp, chừng vỡ lẽ, ông cụ mới biết cậu con út của ông buồn vì quá cảm thương cho cái chết nhân vật nữ trong phim… Qua sự kiện này, thân phụ của nhạc sĩ Tuấn Khanh tin rằng, người con trai út của ông, sẽ thành… “nghệ sĩ.” Tác giả “Chiếc lá cuối cùng” nhấn mạnh, “tiên tri” của ông cụ, với ông, không chỉ là một “giấy phép” mà nó còn giúp ông thêm tự tin nơi năng khiếu âm nhạc của mình.

Năm 1949, Tuấn Khanh sáng tác ca khúc đầu tay: “Hai sắc hoa ti gôn” phổ từ thơ T.T. Kh. (3), nhưng, ca khúc thứ nhất được phổ biến qua làn sóng điện là nhạc phẩm “Thăng Long thành hoài cổ,” phổ thơ Bà Huyện Thanh Quan, năm 1955. (4)

Tuy nhiên, trước khi được nhìn như một một nhạc sĩ có khả năng dẫn dắt những người yêu nhạc nhiều thế hệ, tới những chân trời thơ mộng, thương yêu, hay chắp thêm đôi cánh lãng mạn cho những cuộc tình mơ ước, bay tới đỉnh trời hò hẹn, Tuấn Khanh đã được công nhận như một ca sĩ, với nghệ danh Trần Ngọc. Ông là thủ khoa của cuộc thi hát 1954 do đài phát thanh Hà Nội tổ chức.

Thuật lại diễn tiến cuộc thi, ca sĩ Trần Ngọc cho biết, cuộc thi có ba giai đoạn: Sơ kết, chọn 25 thí sinh. Bán kết chọn 8 và chung kết chọn nhất, nhì, ba, từ 8 thí sinh đó.

Ở cả ba cuộc thi, tác giả “Dưới giàn hoa cũ” đều được chấm nhất. Thủ khoa. (5)

Nhưng khi các thí sinh đậu đầu được mời ra sân khấu trình diễn trước khán giả, thì một trục trặc kỹ thuật đã xẩy ra; gây xáo trộn, bối rối cho ban tổ chức, thí sinh, và luôn cả khán giả nữa.

Số là để bày tỏ lòng biết ơn người đã giới thiệu vợ cho mình, nhạc sĩ Tu Mi đã vào phòng kỹ thuật, điều chỉnh hệ thống âm thanh cho Thanh Hằng (giải nhì cuộc thi,) hát suông sẻ. (6) Nhưng khi tới phiên Trần Ngọc trình diễn thì, ngay khi vừa cất tiếng, chưa kịp hát chưa hết câu “lờ lững đôi chim giang hồ bay…” mở đầu bài “Đôi chim giang hồ” của Ngọc Bích (7) thì, hệ thống âm thanh… trục trặc. Mỗi lần như thế, Trần Ngọc lại cảm thấy mồ hôi “vã ra như tắm!”. Tới lần thứ ba, ông đành nhắm mắt hát tiếp, sau khi hệ thống âm thanh được… “chỉnh lại.”

Do đó, khi nhận phần thưởng, Trần Ngọc nín lặng lãnh giải nhì, trong khi Thanh Hằng được trao giải nhất!

Sau này nhạc sĩ Thẩm Oánh, phó giám đốc đài Hà Nội, kiêm phó chủ tịch ban tổ chức, đã chính thức xin lỗi Trần Ngọc, khi nhân viên kỹ thuật của phòng thâu hôm đó, thú nhận với nhạc sĩ Thẩm Oánh rằng, anh ta đã để cho nhạc sĩ Tu Mi phá hỏng hệ thống thu thanh lúc Trần Ngọc hát. (8.)

Những tưởng định mệnh sẽ không bao giờ mỉm cười với tác giả “Hoa soan bên thềm cũ” một lần nữa! Vì sau khi được trao giải khôi nguyên (thực thụ) của cuộc thi hát do đài phát thanh Hà Nội tổ chức thì biến cố chia đôi đất nước xẩy tới!

Đứa con cưng của âm nhạc, tiếng hát ngọt ngào của làn sóng điện Tuấn Khanh / Trần Ngọc, tới những ngày cuối cùng của cuộc di cư 1954, mới được gia đình cho phép vào Nam. (9)

Một thân một mình giữa Sàigòn lạ lẫm, Tuấn Khanh / Trần Ngọc bắt đầu giai đoạn mới của hành trình “nghệ sĩ ” mà định mệnh đã vạch sẵn cho ông. Với tài năng được công nhận ngay từ khi còn rất trẻ qua cây vĩ cầm, với tiếng hát trời cho và khả năng sáng tác ca khúc dịu dàng, thơ mộng có tính chất quyến rũ lớn, Tuấn Khanh trở thành nhân viên của đài phát thanh Sàigòn. Ông cũng được mời chơi violon cho hầu hết những ban nhạc tên tuổi của đài.

Rớt bão cuộc chia ly Hà Nội còn đuổi buốt sau lưng, giữa vùng đất lạ lẫm, những sáng tác mang tên Tuấn Khanh ra đời như: “Hoa soan bên thềm cũ”, “Chiều biên khu”, Chiếc lá cuối cùng”, “Dưới giàn hoa cũ”, “Nỗi niềm”, “Mộng đêm xuân”…

Với tôi, đó là những hồi ức nóng hổi và, ước mơ vô thức của những khao khát trở lại, quay về. Trên những khuôn nhạc mang tính lãng mạn thời đầu, tuổi trẻ.

Ông cho biết, nếu không tính ca khúc “Đò ngang” viết chung với nhạc sĩ Y Vân, thì “Hoa soan bên thềm cũ,” là sáng tác thứ nhất của ông, được mua và in thành nhạc lẻ, bởi nhà xuất bản An Phú, năm 1956.

Thời đó, việc “lancer” một ca khúc mới hoàn toàn trông vào đài phát thanh. Tuấn Khanh có được cái may mắn hơn những nhạc sĩ khác ở chỗ, vừa là nhạc sĩ chơi violon cho hầu hết những ban nhạc, vừa là ca sĩ hát cho các ban, nên “Hoa soan bên thềm cũ” của ông đã… nở hoa rực rỡ trong các ban nhạc thuộc đài.

Sau khi “nở” giáp vòng, Tuấn Khanh mang tác phẩm của mình đi gặp nhà xuất bản An Phú với hy vọng tràn trề… Nhưng An Phú đã từ chối với một giải thích lạnh lẽo, dứt khoát của thị trường: “Chưa thấy ai hỏi cả! Mang về, ‘lancer’ nữa đi!”

“Làm sao có thể ‘lancer’ được nữa!?!”, tác giả tâm sự, “khi tất cả các ban đã lần lượt chơi cho mình rồi! Thời đó, khi một sáng tác bị nhà xuất bản từ chối, thì tác giả chỉ có nước cho nó vào sọt rác. Quên nó đi để lo viết bài khác thôi!”

Đinh ninh “Hoa soan bên thềm cũ” là đứa con tinh thần chết yểu, Tuấn Khanh cho ra đời “Chiều biên khu”.

Lần này, chẳng biết có phải vì chợt nhớ tới người trẻ tuổi đất Nam Định, chưa được hưởng nhận trọn vẹn nụ cười hàm tiếu hay không mà khi ca khúc “Chiều biên khu” của Tuấn Khanh giới thiệu qua làn sóng điện mới được 2 lần thì định mệnh đã gõ cửa (bằng bàn tay nhà xuất bản nhạc lẻ, An Phú).

Với giọng lưỡi “con buôn,” An Phú bảo: “Này Tuấn Khanh, hôm trước ông mang đến cho tôi bài ‘Hoa soan bên thềm cũ’ tôi không mua. Nhưng giờ nghĩ lại, để cho vui vẻ cả hai bên, hôm nay, tôi ký với ông bài đó. Nhưng chỉ ký một năm thôi đấy nhé…” (10.)

Vừa tiễn An Phú về, chưa kịp ngủ lại, có tiếng gõ cửa nữa; Tuấn Khanh nghĩ, có thể An Phú bỏ quên chìa khóa xe. Nhưng không phải An Phú mà là nhà Diên Hồng. Ông Diên Hồng vứt một đống giấy tờ lên giường ngủ cho Tuấn Khanh, vào đề ngay: “Này Tuấn Khanh, ký cho tôi 3 năm bản ‘Hoa soan bên thềm cũ’ đi”.

Bây giờ nhớ lại, tác giả “Nhạt nhòa” kể, lúc đó ông toát mồ hôi. Chỉ vài phút trước, ký bản quyền bản nhạc ấy 1 năm cho An Phú, không biết chữ ký đã khô mực chưa, tới lượt Diên Hồng! Diên Hồng 3 năm, đâu phải ít! Muộn mất rồi!

Nghe Tuấn Khanh kể lại đầy đủ diễn tiến cuộc “thương thảo” với An Phú, nhà Diên Hồng ngạc nhiên hỏi, bộ ông thực sự không biết các phòng trà, khiêu vũ trường đang lên “cơn sốt” ‘Hoa soan bên thềm cũ’ ” hay sao? Tuấn Khanh nói không, hoàn toàn không biết: “Tôi không hề đến những nơi đó.”
Diên Hồng thất vọng, vớt vát: “Thế có bài nào khác không?”.

“Có ‘Chiều biên khu.’ ” (11)

Diên Hồng đề nghị ký bản quyền 1 năm và ký thêm 3 năm cho bài “Hoa soan bên thềm cũ,” tính từ ngày ca khúc ấy hết hợp đồng với nhà An Phú. Kết quả cụ thể bất ngờ của 2 ca khúc được hai nhà xuất bản nhạc lẻ mua bản quyền cộng chung 5 năm, với nhạc sĩ Tuấn Khanh là một niềm vui lớn. Niềm vui thường có bàn chân hân hoan đi kèm cùng đôi cánh hạnh phúc mới.

Niềm vui này đưa Tuấn Khanh tới một cửa hàng ở khu Passage Eden, nơi chuyên bán những món hàng xa xỉ nhập cảng. Tại đây, ông đã quyết định mua một con búp bê cao hơn thước, làm quà tặng người yêu. Người con gái được Tuấn Khanh chọn để nhận món quà đặc biệt kia là Nguyễn Thị Phương Thư, người bạn đời của Tuấn Khanh sau này. Cô gái họ Nguyễn vốn thuộc dòng danh gia vọng tộc. Thuở đó, nàng đã được chở đi học bằng xe nhà. Nhưng, điều đáng nói hơn cả, theo tôi thì Nguyễn Thị Phương Thư chính là nguồn cảm hứng của ca khúc “Hoa soan bên thềm cũ” cùng nhiều ca khúc khác của Tuấn Khanh.

Tôi vẫn nghĩ đám đông (từ thế hệ này, qua thế hệ khác) đã không sòng phẳng, không công bình khi hầu hết chỉ biết ơn tác giả, những người đem tới cho họ những món ăn tinh thần, những rung cảm thanh khiết, nuôi lớn tâm hồn họ mà luôn bẵng quên rằng, tất cả những tác phẩm có một giá trị nào đó, thường đi ra, bắt nguồn hay được khích lệ từ một người “vắng mặt”.

Những tình khúc nổi tiếng khác của Tuấn Khanh, như “Chiếc lá cuối cùng”, “Một chiều đông”, “Dưới giàn hoa cũ”, “Một ngày chờ mong” vân vân…cũng đi ra từ những người “vắng mặt” đó.

Ông nói: “Bản nhạc nào tôi viết đúng với tâm sự của mình thường dễ đi vào lòng người hơn những bài thương vay khóc mướn. Tuy nhiên, cũng có những bài tôi viết từ cảm xúc trước một câu chuyện, một tâm sự của người khác. Và những bài này, cũng được thính giả đón nhận”.
Về định mệnh riêng từng ca khúc, Tuấn Khanh cho biết, tình khúc “Những chiều tan học” ông sáng tác trước tháng 4-1975 cho một nữ sinh trường Trưng Vương. Nhân vật này có một năm được trường chọn cưỡi voi, trong dịp Lễ Hai Bà Trưng. Rất tiếc, ca khúc ấy không được đón nhận rộng rãi.

Đầu năm 1983 tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Tuấn Khanh có tình khúc “Từ đó khôn nguôi” được nhiều người yêu thích. “Nhưng đó chính là bài ‘Những chiều tan học’ được tôi sửa đổi ít nhiều”, Tuấn Khanh tiết lộ. (12)

Tính tới tháng 4 năm 1975, nếu gồm luôn cả những sáng tác chưa được in thành nhạc lẻ thì tổng số ca khúc của Tuấn Khanh đã lên con số trên dưới 100 bài. Con số này tương đối “khiêm tốn” đối với những nhạc sĩ chạy đua cùng thị hiếu. Nhưng với một người trân trọng, nâng niu âm nhạc như Tuấn Khanh, là con số không nhỏ!

Nếu lãnh vực sáng tác ca khúc như một bản ngã thứ hai cùng Tuấn Khanh đi suốt hành trình nhân thế thì sự nghiệp ca hát của tác giả “Nỗi niềm” lại chấm dứt từ năm 1970. Tới nay, ở quê người, vẫn còn nhiều thính giả mong đợi Trần Ngọc / Tuấn Khanh hát lại, nhưng ông không thể. Ông thú nhận: “Tôi không có khả năng nhớ ca từ. Ở trong phòng vi âm, cầm bản nhạc mà hát, tôi nghĩ khó ai có thể vững vàng hơn tôi. Nhưng lần nào bước ra sân khấu tôi cũng bị khớp! Chưa hát mà mình đã chuẩn bị ‘bịa“ lời cho những đoạn mình sẽ quên, thì làm sao hay được?!”

Sau khi suy nghĩ, cân nhắc, cuối cùng tác giả “Nhạt nhòa” quyết định chỉ giữ lại cho mình, hai trong ba sở trường là sáng tác ca khúc và chơi đàn violon. (13)

Tôi nghĩ, quyết định chỉ giữ lại 2 trong 3 sở trường của nhạc sĩ Tuấn Khanh, với thời gian, hy sinh này ông đã được bù đắp. Ông không chỉ có nhiều thì giờ hơn dành cho ca khúc, mà những năm tháng tỵ nạn tại Hoa Kỳ, ông cũng là một trong số ít các nhạc sĩ (thuộc thế hệ khởi nghiệp sau Hiệp định Geneva,) vẫn duy trì được sức sáng tác sung mãn cho sự nghiệp âm nhạc của mình. Kết quả cụ thể là gia tài tinh thần của ông đã gia tăng nhiều sau những sáng tác được yêu thích như “Hoa soan bên thềm cũ”, “Chiều biên khu”, “Quán nửa khuya” (viết chung với Hoài Linh), “Vườn đời”, “Hai kỷ niệm một chuyến đi” (viết chung với Hoài Linh)…

Kể từ đầu năm 1983 (năm Tuấn Khanh định cư tại Hoa Kỳ) tới tháng 6 năm 2009 vừa qua ông đã viết được gần 70 ca khúc.
Khởi đầu giai đoạn tỵ nạn, nhạc sĩ Tuấn Khanh đã thành công ngay với 2 ca khúc phổ từ 2 bài kinh nhan đề “Kinh cầu nguyện lạy Cha” và “Tôi tin”. Sự thành công này, đã dẫn đến việc ông được bầu làm Chủ tịch Hội thánh của Mục sư Nguyễn Trọng Nguyên ở miền nam Cali.

Kế tiếp, những tình khúc khác của Tuấn Khanh cũng ra đời và được nhiều thính giả đón nhận như đón nhận những dòng sữa thương yêu, thầm thì kỷ niệm. Trong số những tình khúc này ta có thể kể những bài tiêu biểu như “Nỗi niềm”, “Nhạt nhòa”, “Tháng chín dòng sông”, “Tại vắng anh” (viết theo thể điệu Blue), vân vân…

Tuy cõi giới âm nhạc Tuấn Khanh là cõi giới dịu dàng, thơ mộng, nhưng mọi chân trời đều không giới hạn được đường bay của cánh chim khát khao mới. Thời gian không trói buộc được tài năng của người nhạc sĩ họ Trần. Ông vẫn băng băng đi tới những kiếm tìm nơi tận cùng chân mây, chinh phục những đỉnh ngọn thách đố khác.

Tôi cho chỉ có khát khao đi với tài năng vừa kể của Tuấn Khanh mới giải mã được hiện tượng ở tuổi 70 (tức năm 2002, VHLA chú thích), trong vòng 1 năm thôi, ông đã thành công với 52 bài thiền ca, đa số phổ từ thơ của Ni Sư Chân Thiền.

Chưa hết, cách đây vài tháng, khi đã bước vào tuổi 77 (tức năm 2009 VHLA chú thích), tác giả “Hoa soan bên thềm cũ” cũng đã tháp đôi cánh âm nhạc, thêm cho bài thơ “Chọn màu áo” của nhà thơ Nhất Tuấn (hiện cư ngụ tại thành phố Olympia, tiểu bang Washington State), làm thành một hôn phối tốt đẹp giữa thi ca và âm nhạc.

Sự dài hơi hay nội lực sung mãn của Tuấn Khanh cũng giải mã cho những nhánh sông âm nhạc của ông. Điển hình, từ ca khúc đầu nguồn là “Chiếc lá cuối cùng”, theo dòng, ông có “Một chiều đông”, “Dưới giàn hoa cũ”, “Tại vắng anh”, “Tháng chín dòng sông” và “Nợ nhau một chút giận hờn”.

Cũng vậy, từ ca khúc đầu nguồn là “Hoa soan bên thềm cũ”, theo dòng, ông có “Vườn đời”, “Chiều biên khu”, “Đêm này nghỉ đỡ chân”, “Nỗi niềm”, “Nhịp đôi vai”, “Một sớm anh về” và “Mộng đêm xuân”.

Được mô tả là một nhạc sĩ lãng mạn với khả năng lao tác tinh thần bền bỉ hiếm thấy, đem hương thơm đến các tâm hồn yêu nhạc nhiều thế hệ, có thể ít người biết rằng, trong đời thường, nhạc sĩ Tuấn Khanh là một người rất nặng tinh thần gia đình và ông chủ trương chống lại thói quen lạm dụng hai chữ “nghệ sĩ” để sống luông tuồng, thiếu đạo lý.

Về bút hiệu Tuấn Khanh ông cho biết, đó là hợp âm của hai tên gọi: “Tuấn” tên ông anh lớn, người khai tâm âm nhạc cho tác giả “Quán nửa khuya” khi ông còn tấm bé, và “Khanh” là tên một người con trai của ông anh lớn. Người cháu trai của tác giả “Hai kỷ niệm một chuyến đi” ra đời trong lúc ông chuẩn bị chia tay gia đình, di cư vào miền Nam, năm 1955.

Về giới hạn của hai chữ “nghệ sĩ”. Tuấn Khanh cho biết, ông không đồng ý quan điểm của một số nghệ sĩ cho rằng nhạc sĩ không… có tuổi. Ông quan niệm chỉ trái tim của một nghệ sĩ hay nhạc sĩ là không có tuổi. Còn bảo rằng nhạc sĩ là loại người không có tuổi… già thì không đúng!

“Hiển nhiên ai rồi cũng sẽ phải già đi theo thời gian. Giữ gìn cách mấy thì tóc của ta sớm muộn gì cũng bạc. Sức khỏe sẽ mỗi ngày một thêm yếu kém…”

Và ông kết luận: “Đó là lý do từ hồi nào giờ tôi rất phân minh trong mọi giao tiếp. Người lớn ra người lớn. Người bé ra người bé. Dù trong giới nghệ sĩ với nhau, tôi cũng không thể chấp nhận tình trạng ‘cá đối bằng đầu’. Ai cũng có thể ‘anh anh / em em’ như nhau được!”

Ông kể lại một câu chuyện mà sau đó ông đã lắc đầu ngao ngán! Đó là câu chuyện ông tình cờ gặp một nhạc sĩ lớn tuổi hơn, nên ông gọi bằng “anh” xưng “em.” Bất đồ, trước khi chia tay, ông lại gặp một người con của ông nhạc sĩ ấy. Khi gặp ông, người con nhạc sĩ kia đã thản nhiên gọi ông bằng “anh,” và xưng “em” với ông, trong trạng thái vui mừng, được gặp gỡ!

Tôi không biết có phải vì Tuấn Khanh được nuôi dưỡng trong truyền thống đạo đức, lễ độ ngay từ cách xưng hô của gia đình hay không, nhưng rõ ràng cho đến bây giờ, dù đã ngoài 70, mà hai người chị lớn của ông tên Kim và Liên còn ở Việt Nam, vẫn theo dõi sít sao mọi sinh hoạt nghệ thuật cũng như đời thường của ông. Cách nhau cả một đại dương, nhưng vẫn như ngày nào, hai bà không ngừng khuyến khích, góp ý với ông, trong tất cả mọi sinh hoạt, từ tinh thần, tới xã hội. Đối với tôi, tình gia đình kia, là một hạnh phúc đáng kể của nhạc sĩ Tuấn Khanh.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin trích đoạn một bài viết của Hồ Huấn Cao, viết trong chương trình “Tác giả và tác phẩm” cho đài phát thanh VOA, phát thanh về Việt Nam hồi trung tuần tháng 10 năm 2000, như sau:

“Giải thích cho sự thành công của cõi nhạc Tuấn Khanh, những nhân vật có thẩm quyền về âm nhạc cho rằng, Tuấn Khanh có trong tay chiếc chìa khóa mở được cánh cửa ngôi đền âm điệu mà những người viết nhạc quen gọi là ‘melody.’

Mỗi ca khúc của ông mặc khoác một âm điệu khác nhau. Nhưng có chung một mẫu số. Mẫu số thiết tha. Mẫu số chân thật. Mẫu số đáp ứng rung động trái tim nhiều người.

Sâu hơn nữa, có người còn thêm rằng, bên cạnh khả năng trời cho kia, Tuấn Khanh còn là một thi sĩ. Nơi bất cứ ca khúc nào của ông, thỉnh thoảng người ta cũng bắt gặp những hình ảnh, những ngôn ngữ rất thi ca, rất trữ tình và cũng rất bất ngờ.

Thí dụ trong ca khúc ‘Nhạt nhòa’, một trong những sáng tác Tuấn Khanh viết tại quê người, khi bắt gặp những câu như ‘lẻ bóng rưng rưng – tình nỡ quay lưng – trong chiều hấp hối’, người nghe không khỏi bâng khuâng, xao động.

Trong đời riêng, mỗi chúng ta mấy ai không có ít nhất một lần, bỗng không, tức tưởi, bật khóc một mình. Trong đời riêng, mỗi chúng ta mấy ai không ít nhất một lần cất tiếng hỏi, cớ sao ‘tình nỡ quay lưng’ (?)

Câu hỏi, theo tôi, dành cho tình yêu, chứ không phải người yêu.
Câu hỏi dành cho sự tha thiết, lẽ sống chết của tâm hồn ta, của chính ta, chứ không phải câu hỏi dành cho kẻ phản bội.
Câu hỏi và cách hỏi đó, là câu hỏi và cách hỏi rất thi sĩ, rất văn chương vậy.”

Du Tử Lê, (July 31 09)

Chú thích:
(1) Nhạc sĩ Tuấn Khanh / Trần Trọng Ngọc sinh năm 1933, tại Nam Định.

(2) Theo nhà báo Vương Hồng Anh thì ba điều căn bản của hiệp định đó là (a) Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1954 cuộc đình chiến giữa quân đội Liên Hiệp Pháp và Việt Minh (tên gọi lực lượng quân sự Cộng sản thời bấy giờ) có hiệu lực. (b) Việt Nam tạm thời bị phân đôi mà ranh giới hai miền là cây cầu Hiền Lương. Hai năm sau, một cuộc tổng tuyển cử sẽ được thực hiện để thống nhất đất nước. (c) Thành lập Ủy Ban Kiểm soát đình chiến với Ấn Độ, giữ vai trò chủ tịch với hai thành viên là Ba Lan và Gia Nã Đại (Canada). Vẫn theo Vương Hồng Anh thì ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, đại diện chính quyền quốc gia không ký nhận bản hiệp định. Do đấy, khi tới hạn kỳ, tổng thống Ngô Đình Diệm từ chối thi hành. Ông cho rằng đấy chỉ là cơ hội hay phương tiện để chính quyền CS miền Bắc thôn tính miền Nam một cách hợp pháp mà thôi.

(3) Đến giờ, vẫn không ai biết được một cách chính xác T.T.Kh. là ai, mặc dù bút mực đã đổ ra khá nhiều chung quanh 4 bài thơ của tác giả này.

Có dư luận ghi nhận rằng năm 1937 tờ Tiểu Thuyết Tuần San (TTTS) ở Hà Nội, đăng truyện ngắn nhan đề “Hai sắc hoa ty gôn” của nhà văn Thanh Châu. Ít ngày sau, một thiếu phụ trạc ngoài 20, mang tới cho tòa soạn 2 bài thơ, ký tên T.T.Kh. nhờ loan tải. Đó là các bài nhan đề “Hai sắc hoa ti gôn” và “Bài thơ thứ nhất”. Sau khi đăng tải, tòa báo nhắn tin, xin tác giả cho biết địa chỉ, nhưng không được hồi âm. Tính tới năm 1938, T.T.Kh. cho phổ biến thêm 2 bài thơ nữa, rồi im bặt, tới hôm nay. Theo Báck khoa toàn thư mở Wikipedia thì sự việc trở nên rối rắm khi Nguyễn Bính và Thâm Tâm có những bài thơ nội dung úp mở, cho thấy họ có liên hệ tình cảm với T.T.Kh.

Một giả thuyết khác cho rằng nhà văn Thanh Châu, với bút hiệu T.T.Kh., đã sáng tác 4 bài thơ trên, tạo xì căng đan để tăng số bán cho TTTS. Nhưng khi thấy việc làm của mình có xu hướng vượt khỏi mục tiêu ban đầu, ông đã âm thầm chấm dứt “trò chơi ú tim” văn nghệ ấy.

(4) Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, thì tác giả Bà Huyện Thanh Quan tên thật Nguyễn Thị Hinh, sinh năm 1805 (?), mất năm 1848(?), là người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), giỏi thơ văn thời Minh Mạng và Tự Đức… Tên Bà Huyện Thanh Quan xuất phát từ sự kiện chồng bà từng giữ chức tri huyện Thanh Quan.

Trong cuốn “Nam thi hợp tuyển” tác giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc viết: “Chồng bà là ông Lưu Nguyên Ẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can gián phải cách, (được) bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ Hình. Sau lại thăng lên chức Viên Ngoại Lang. “Năm 1839, thời Tự Đức, bà vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và hậu phi. Ở Huế, bà giao thiệp và để lại ấn tượng sâu sắc với nhiều kẻ sĩ. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê nghỉ hưu và đưa 4 con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Công chúa Mai Am đã tặng bà bài thơ ‘Tống Ái Lan Thất Nguyễn Thị Lưu Hà Nội’ ”. Bà để lại cho hậu thế tất cả 6 bài thơ loại Thất ngôn bát cú. Trong đó có bài “Qua đèo Ngang” rất phổ biến.

(5) Nhạc sĩ Tuấn Khanh kể, trong cuộc thi hát năm 1953, thủ khoa là nữ ca sĩ Thanh Hiếu, và á khóa là nữ ca sĩ Kim Tước.

(6) Nhạc sĩ Tu Mi, tác giả ca khúc “Tan tác”. Hệ thống âm thanh thời đó là những chiếc bóng đèn nhỏ thay vì các hàng nút. Chỉ cần xoay lỏng 1 trong những chiếc bóng đèn đó, thì âm thanh đã khác, hoặc tắt hẳn.

(7) Nhạc sĩ Ngọc Bích (1924-2001) còn nổi tiếng với những ca khúc như “Mộng chiều xuân”, “Khúc nhạc tương tư”, “Trở về bến mơ”, vân vân…

(8) Giám đốc đài Hà Nội khi ấy là nhạc sĩ Vũ Khánh, anh ruột nhạc sĩ Vũ Thành (tác giả ca khúc “Giấc mơ hồi hương”). Do đó, ông cũng là chủ tịch hội đồng giám khảo cuộc thi.

(9) Nhạc sĩ Tuấn Khanh vào Nam, từ Hải Phòng. Nhà báo Vương Hồng Anh cho biết, theo quy định thì hiệp định Geneva có hiệu lực từ ngày 21 tháng 7-1954. Người dân Hà Nội có 60 ngày để di cư vào Nam, bằng máy bay. Riêng Hải Phòng, có được 100 ngày, dân di cư được đi bằng tầu thủy.

(10) Tác quyền 1 ca khúc in thành nhạc lẻ, thời đó là 1,500$ cho hợp đồng 1 năm. Trong khi lương công chức phù động là 2,100$/1 tháng.

(11) Bài này có những câu mở đầu như sau: “Chiều nao anh đứng gác ngoài biên khu – Gió xa về dâng sương khói mịt mù – Đàn chim tung cánh bay về tổ ấm – Sương xuống phai nhòa quê hương yêu dấu…”

(12) Những câu mở đầu ca khúc “Từ đó khôn nguôi” như sau: “Mỗi lần em về là gió lộng đường đi – Anh nhìn em bồi hồi trông theo tà áo – Nhẹ gót thắm vào mãi đáy tim tôi – Từ đó nhớ khôn nguôi và chiều chiều thấy đơn côi…”
(13) Ca sĩ Duy Trác, trong một chương trình phát thanh chủ đề “Tiếng hát Trần Ngọc,” trên đài VOVN, ở Houston, Texas, ngày 7 tháng 2 năm 2004, có đoạn nói về Tuấn Khanh / Trần Ngọc như sau: “…Ông có một giọng ca trầm ấm vì căn bản là một nhạc sĩ, khi hát ông có sẵn nhiều ưu điểm. Giọng ca Trần Ngọc tình cảm nhưng rất mực thước, không bao giờ ông thêm bớt một chút gì vào nguyên bản ca khúc mình trình bày như một số ca sĩ thường làm (…). Chúng tôi mong ông cũng nghe chương trình này mà sẽ nghĩ đến việc thực hiện một cuốn băng hay đĩa nhạc do chính ông trình bày vì e rằng tiếng hát ngày xưa của ông không còn ai giữ được và như thế chúng ta vừa có Trần Ngọc vừa có Tuấn Khanh…”

Xem thêm: Phỏng vấn nhạc sĩ Tuấn Khanh, tác giả của „Chiếc lá cuối cùng“ – Trịnh Thanh Thủy:
http://chimvie3.free.fr/65/trinhttn_TuanKhanhPV_065.htm

Bài trướcNgười Việt tỵ nạn Thái Lan phản biện Video
Bài tiếp theoCách chữa 46 loại bệnh tật bằng mẹo không cần thuốc